Saturday, March 29, 2008

Thần thọai Hi Lạp - Thời đại của các vị thần và loài người

Bắc cầu cho thời đại các vị thần sống một mình và thời đại mà sự can thiệp của thần thánh vào cuộc sống của loài người bị hạn chế là thời đại chuyển tiếp khi thần và người cùng sống tự do với nhau.

Thể loại truyện kể thông dụng nhất về sự gặp gỡ của các vị thần và những con người đầu tiên có liên quan đến việc các nam thần (thường là Zeus) quyến rũ hay cưỡng bức một phụ nữ, rồi tạo ra những người con anh hùng. Trong một vài trường hợp, một nữ thần lại kết hợp với một người đàn ông, như trong Vần thơ của Homer về Aphrodite, trong đó nữ thần này kết hợp với Ankhises và sinh ra Aeneas. Cuộc hôn nhân của Peleus và nữ thần Thetis, sau đó sinh ra Achilles, là một ví dụ khác.

Một thể loại nữa có liên quan đến sự chiếm đoạt hay phát minh ra vật dụng văn hóa quan trọng nào đó, như khi Prometheus ăn trộm lửa từ các vị thần, khi Tantalus lấy trộm rượu và thức ăn trên bàn của Zeus đem về bàn tiệc của mình - tiết lộ cho họ về các bí mật của các vị thần, khi Prometheus hay Lycaon phát minh ra tế lễ, khi Demetra dạy nông nghiệp và các các nghi thức tế lễ bí mật cho Triptolemus, hay khi Marsyas phát minh ra aulos (một nhạc cụ giống như sáo) và thi đấu âm nhạc với thần Apollo.

Và một thể loại nữa dành riêng cho thần Dionysus: vị thần đến từ những vùng đất ngoại bang, lang thang khắp Hy Lạp để truyền bá tín ngưỡng của mình. Vua Lycurgus hay Pentheus, gây khó khăn và chống đối lại thần, cuối cùng bị thần trừng phạt tàn nhẫn.

Thời đại các anh hùng

Thời đại các anh hùng có thể được phân chia ra quanh các sự kiện vĩ đại của cuộc hải trình của nhóm thủy thủ tàu Argo (một nhóm các anh hùng cùng với người hùng Jason của thần thoại Hy Lạp) và Chiến tranh thành Troy. Cuộc chiến thành Troy tạm đánh dấu sự kết thúc của thời đại các anh hùng.

Những anh hùng đầu tiên:

Trong các anh hùng, Heracles hầu như nổi trội hơn hẳn. Các kỳ công mà người anh hùng này đơn độc lập được, với các chủ đề như trong truyện dân gian, đã trở thành tài liệu cho các huyền thoại được nhiều người biết đến. Khả năng ăn uống kinh khủng cộng với tính cách chất phác, mộc mạc cũng làm cho Heracles trở thành một hình tượng quen thuộc trong hài kịch; trong khi kết cục đáng thương lại trở thành tài liệu cho bi kịch.

Các nhân vật khác trong thế hệ đầu tiên của các anh hùng, như Perseus, Theseus và Bellerophontes, có nhiều đặc điểm giống với Heracles. Các chiến công của họ cũng lạ thường, cũng do họ đơn độc tạo ra và gần như là truyện thần tiên, như khi họ tiêu diệt các quái vật như Medusa và Chimera. Thế hệ này không được ưa chuộng trong việc trở thành đề tài cho các các thi sĩ về sau. Người ta biết đến họ chủ yếu là thông qua các nhà ghi chép huyền thoại và các lời nhận xét thoáng qua trong các tác phẩm văn xuôi. Tuy nhiên họ lại là các đề tài ưa thích của thể loại nghệ thuật thị giác.

Hậu duệ của nhóm thủy thủ tàu Argo:

Hầu như mọi thành viên của thế hệ anh hùng kế tiếp, cũng như Heracles, đều đi với Jason trong hành trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng. Thế hệ này cũng bao gồm cả Theseus, người đi đến Crete để tiêu diệt Minotaur; nữ anh hùng Atalanta; và Meleager, người đã từng có một thiên anh hùng ca của riêng mình có thể cạnh tranh với Iliad và Odyssey.

Tội ác hoàng gia:

Trong giai đoạn giữa cuộc hải trình trên tàu Argo và Chiến tranh thành Troy, có một thế hệ nữa được biết đến chủ yếu về các tội ác kinh khủng. Các tội ác này bao gồm các hành vi của Atreus và Thyestes ở thành Argos; và của Laius và Oedipus ở Thebes, cuối cùng dẫn đến sự cướp phá thành phố này dưới tay của Bảy người chống lại thành Thebes và Epigoni. Vì những lý do hiển nhiên mà thế hệ này cực kỳ được ưa thích bởi các tác giả bi kịch của thành Athena.

Troy và hậu quả:

Cuộc chiến thành Troy là điểm chuyển tiếp giữa thời đại các anh hùng và thời đại mà người Hy Lạp coi như là thời kỳ lịch sử (có thật chứ không phải hư cấu). Sự mở đầu và kết thúc của nó hơn hẳn các sự kiện khác trong thời đại các anh hùng về số lượng các nguồn tài liệu hiện có. Cuộc chiến thành Troy bao gồm:

Các sự kiện dẫn đến cuộc chiến: Sự phán xét của Paris về sắc đẹp của ba vị nữ thần, việc bắt cóc Helen, sự hiến thân của Iphigenia ở Aulis.
Các sự kiện của Iliad, bao gồm cuộc tranh cãi giữa Achilles và Agamemnon và cái chết của Patroclus và Hector.
Mưu kế con ngựa thành Troy và sự phá hủy thành Troy.
Chuyến đi về nhà của các anh hùng từ thành Troy, bao gồm cuộc lang thang của Odysseus và án mạng giết Agamemnon.
Con cái của thế hệ các anh hùng thành Troy: ví dụ như Orestes và Telemachus.

Thần thọai Hi Lạp - Thời đại của các vị thần

Như các láng giềng lân cận, người Hy Lạp tin vào một đền thờ đa thần (pantheon), một tập hợp các vị nam thần và nữ thần được liên kết đến các khía cạnh cụ thể của cuộc sống. Ví dụ như Aphrodite là nữ thần của tình yêu, còn Ares là thần của chiến tranh, và Hades là thần của cõi u minh. Một vài vị thần như Apollo và Dionysus có những nhân cách khá phức tạp và đảm trách nhiều nhiệm vụ khác nhau trong khi các thần khác như nữ thần Hestia (có nghĩa là "gia đình" hay "tổ ấm") và thần Helios (có nghĩa là "mặt trời") chỉ được nhân cách hóa một tí. Cũng có các vị thần gắn với một địa điểm cụ thể như các thần sông và các nữ thần (nymph) của các con suối và hang động, và các lăng mộ được sùng kính của các anh hùng.

Mặc dù có hàng trăm các nhân vật có thể được xem như các "thần" hay các "anh hùng" theo nghĩa này hay nghĩa kia, một vài nhân vật chỉ được nhắc đến trong các truyện dân gian hay được tôn sùng ở một địa phương cụ thể nào đó (như Trophonius) hay tại các lễ hội cụ thể nào đó (như Adonis). Các địa điểm chính của các nghi thức, các đền thờ lớn, được dành phần lớn cho một nhóm nhỏ các thần, chủ yếu là cho Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus, Heracles và Asclepius và ở một vài nơi có thờ cả Helios. Các vị này là các trung tâm của các tín ngưỡng có tầm ảnh hưởng rộng thời văn minh Hellen. Nhiều vùng và các ngôi làng có các tín ngưỡng riêng, thờ cúng các nymph, các thần linh, anh hùng thiểu số khác mà các nơi khác không hề biết đến. Hầu hết các thành phố cũng thờ cúng các vị thần chính với các nghi thức địa phương kỳ dị và có các truyền thuyết địa phương đặc biệt về các vị thần này.

Các vị thần đầu tiên:

Một loại truyện kể đầu tiên về thời đại các vị thần kể về sự ra đời và mâu thuẫn của các vị thần đầu tiên: Chaos, Nyx, Eros, Uranus, Gaia, các Titan và sự chiến thắng của thần Zeus và các vị thần Olympus. Thần phả (Theogony) của Hesiod là một ví dụ của loại này. Đây cũng là đề tài của nhiều bài thơ ca bị thất lạc như các bài được quy cho là của Orpheus, Musaeus, Epimenides, Abaris và các nhà tiên tri huyền thoại khác, được dùng trong các lễ tẩy uế riêng và các nghi thức huyền bí riêng. Một vài phần của các tác phẩm này tồn tại trong các trích dẫn của các triết gia trường phái Tân Plato và các phế vật bằng giấy cói (papyrus) được khai quật gần đây.

Những người Hy Lạp đầu tiên nghĩ về thơ ca xem Thần phả, hay bài ca về sự ra đời của các vị thần, như là thể loại thơ ca đầu tiên - mythos đầu tiên - và gán hầu hết các năng lực phép màu cho nó. Orpheus, thi sĩ nguyên mẫu, cũng là ca sĩ nguyên mẫu của các bài ca thần phả, đã sử dụng chúng để làm cho biển cả và các cơn bão lặng dần đi, và làm rung động con tim sắt đá của các vị thần của âm ty trong chuyến đi xuống cõi Hades (tên vị thần của cõi u minh, đồng thời cũng là danh từ để chỉ vùng quản hạt của vị thần này). Khi thần Hermes phát minh ra đàn lia (lyre) trong Vần thơ của Homer về Hermes (Homeric Hymn to Hermes), việc đầu tiên mà ông ta làm là hát bài ca về sự ra đời của các vị thần. Thần phả của Hesiod không chỉ là bản miêu tả về các vị thần đầy đủ nhất còn tồn tại mà còn là một bản miêu tả đầy đủ nhất về chức năng của các thi sĩ thời Tối Cổ còn tồn tại với các lời dẫn nhập dài cầu khẩn nàng thơ Muse (để mở đầu một bài anh hùng ca).

Các vị thần trẻ:

Một loại nữa kể câu chuyện về sự ra đời, các cuộc chiến đấu, các kỳ công và cuối cùng là việc trèo lên đỉnh Olympus của một trong thế hệ các vị thần trẻ như: Apollo, Hermes, Athena, v.v. Sử thi Homer là nguồn cổ nhất của thể loại này. Chúng thường gắn chặt với các trung tâm tín ngưỡng của vị thần được đề cập. Vần thơ của Homer về thần Apollo là một sự kết hợp của hai chuyện: một kể về sự ra đời của Apollo ở Delos, chuyện còn lại kể về sự thành lập đền tiên tri của Apollo ở Delphi. Tương tự như vậy, Vần thơ của Homer về Demetra, với câu chuyện Hades bắt cóc Persephone, kể về câu chuyện đằng sau các nghi thức tế lễ huyền bí của người Eleusis (Eleusinian Mysteries).

Thần thọai Hi Lạp - Tổng Quan

Thần thoại Hy Lạp có phạm vi rất rộng lớn, bao gồm từ các tội ác khủng khiếp của các thần Titan và các cuộc chiến đẫm máu ở thành Troy và Thebes, đến các trò tinh nghịch trẻ con của Hermes và sự đau khổ đến động lòng của Demetra vì con gái Persephone. Không thể đếm nổi số lượng các nam thần (god), nữ thần (goddess), nam anh hùng (hero), nữ anh hùng (heroine), quái vật (monster), ma quỷ (demon), các nữ thần núi và sông (nymph), các nhân dương (satyr) và nhân mã (centaur) đã xuất hiện.

Thần thoại Hy Lạp có một bảng niên đại tuy không chính xác lắm. Các mâu thuẫn trong các tài liệu làm cho việc phân khúc thời gian của thần thoại Hy Lạp không được chính xác. Tuy nhiên, thần thoại Hy Lạp được phân tạm ra thành ba thời đại:

1. Thời đại của các vị thần,
2. Thời đại thần và người sống hòa vào nhau một cách tự do, và
3. Thời đại của các anh hùng, khi mà hoạt động của thần thánh bị hạn chế hơn.

Trong khi các người nghiên cứu thường có hứng thú hơn về các huyền thoại thuộc về thời đại của các vị thần, các tác giả Hy Lạp trong các kỷ nguyên Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical) rõ ràng lại tỏ ra ưa thích các huyền thoại thuộc về thời đại của các anh hùng, ví dụ như hai bản anh hùng ca Iliad và Odyssey, hơn hẳn các câu chuyện tập trung vào thần thánh như Thần phả và Sử thi Homer về cả quy mô lẫn tính đại chúng


3. Các giả thuyết về nguồn gốc:

Ngay từ cổ xưa, các tác giả như Herodotus đoán rằng người Hy Lạp đã vay mượn hàng loạt các vị thần từ người Ai Cập. Sau này, các tác giả Cơ Đốc đã cố gắng giải thích việc thờ nhiều thần của người Hy Lạp như là một sự thoái hóa của tôn giáo đến từ Kinh thánh. Tuy nhiên, vào các thế kỷ 19 và 20, các ngành khoa học khảo cổ và ngôn ngữ được dùng để giải thích nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp.

Một mặt, ngôn ngữ học lịch sử cho thấy một vài phần của thần hệ Hy Lạp đến từ xã hội Ấn-Âu cùng với cội nguồn của ngôn ngữ Hy Lạp. Vì thế, ví dụ, cái tên Zeus có cùng nguồn gốc với Jupiter trong tiếng Latinh, Dyaus trong tiếng Phạn và Tyr trong tiếng Đức, cũng như tên Ouranos với tên Varuna trong tiếng Phạn. Trong các trường hợp khác, các sự tương tự trong các nhân vật và chức năng của họ cũng chứng tỏ một cội nguồn chung, tuy nhiên, các chứng cứ ngôn ngữ học còn chưa đủ, nên khó có thể chứng thực được - như trong trường hợp Moirae của người Hy Lạp và Norns của thần thoại Bắc Âu.

Mặc khác, khảo cổ học lại cho thấy một sự vay mượn lớn của người Hy Lạp từ các nền văn minh Tiểu Á và Cận Đông. Kybele là một ví dụ rõ ràng của việc vay mượn từ văn hóa Anatolia, trong khi Aphrodite lại có nhiều đặc điểm hình tượng và danh hiệu từ nữ thần của văn hóa Semit như Ishtar và Astarte.

Các nghiên cứu văn bản đã hé lộ một vài tầng lớp trong các câu chuyện, ví dụ như những lời nói phụ dẫn Theseus vào trong câu chuyện Mười hai kỳ công của Heracles. Người ta cho rằng những câu chuyện có liên quan đến việc dùng tên người đặt cho một địa danh bắt nguồn từ các nỗ lực tiếp thu thần thoại của một tín ngưỡng này vào một tín ngưỡng khác để thống nhất các nền văn hóa.

Ngoài sự bắt nguồn từ Ấn-Âu và Cận Đông, một vài học giả còn cho rằng có sự liên quan giữa thần thoại Hy Lạp đối với các nhóm xã hội Hy Lạp trong thời kỳ trước thời văn minh Hellen mà cho đến nay người ta còn chưa hiểu rõ, ví dụ như những người Mino và những người được gọi là người Pelasgi. Điều này đặc biệt đúng trong trường hơp về các vị thần âm ty và thần mẫu. Lấy ví dụ, ba thế hệ thần chính trong Thần phả của Hesiod (Uranus, Gaia, v.v.; các Titan và rồi sau đó là các vị thần trên đỉnh Olympus) có thể là phản ánh về sự tranh đấu gữa các nhóm xã hội, với ba nền văn hóa đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp: Minoa, Mycenae và Hellen.

Sự giống nhau giữa câu chuyện của Hesiod và thần thoại của người Hurrian về Anu, Kumarbi và Teshub cho thấy rất có thể câu chuyện này là một sự phóng tác dựa trên các tài liệu vay mượn hơn là một sự bóp méo các dữ kiện lịch sử. Sự tương tự giữa các thế hệ thần sớm nhất (Chaos và các con) và Tiamat trong Enuma Elish là có khả năng (Joseph Fontenrose, Python: A Study of Delphic Myth and Its Origins: NY, Biblo-Tannen, 1974).

Các học giả thuộc trường phái phân tích tâm lý do Carl Jung sáng lập như Karl Kerenyi nghiêng về quan điểm nguồn gốc của các câu chuyện thần thoại (và sự mơ mộng) là từ các nguyên mẫu chung. Mặc dù không phải độc giả nào cũng đồng ý với sự diễn giải về thần thoại theo các thuật ngữ về sự mơ mộng/tưởng tượng của trường phái tâm lý học Carl Jung (ví dụ như theo Kerenyi hay Joseph Campbell), hầu hết mọi người đều đồng ý rằng thần thoại mang tính chất tưởng tượng trong hai mặt: chúng không hoàn toàn nhất quán với nhau, và có lẽ là không nhất quán ngay cả trong một chi tiết thần thoại riêng biệt, và chúng thường phản ánh một vài kinh nghiệm nhất thời về bản chất của thượng đế, một sự hiển linh nào đó, mà sau này phải được liên kết vào một sợi chỉ dẫn chuyện, giống như là sự tưởng tượng được tạo ra từ các sự kiện nối tiếp nhau.

Tóm lại, nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp vẫn còn đang là một câu hỏi mở đầy lôi cuốn.

4. Người Hy Lạp có tin vào các vị thần của họ không?:

Đối với người Hy Lạp, thần thoại phản ánh một phần lịch sử của họ; một số người từng nghi ngờ về sự thật của câu chuyện Chiến tranh thành Troy trong tác phẩm Iliad và Odyssey. Người Hy Lạp đã sử dụng thần thoại để giải thích các hiện tượng tự nhiên, các sự khác biệt về văn hóa, các mối quan hệ thù địch và bằng hữu truyền thống. Sẽ là một niềm tự hào đối với họ nếu có thể truy ra tổ tiên của một người nào đó chính là một anh hùng hay vị thần huyền thọai.

Mặt khác, các triết gia như Xenophanes đã từng bắt đầu cho rằng các câu chuyện của các thi sĩ là các lời dối trá báng bổ vào thế kỷ thứ 6 TCN; dòng suy nghĩ này được biểu lộ chung chung trong các tác phẩm Nền Cộng hòa (Republic) và Luật pháp (Laws) của Platon. Thẳng thắn hơn, tác gia bi kịch Euripides trong thế kỷ thứ 5 TCN thường đùa nghịch với các phong tục truyền thống cũ, chế giễu chúng và thông qua tiếng nói của các nhân vật mà đưa ra sự nghi ngờ. Trong các trường hợp khác, Euripides có vẻ như hướng đến việc chỉ trích hành vi của các vị thần.

Các thi sĩ, đặc biệt trong thời kỳ Đế quốc La Mã về sau, thường phóng tác các câu chuyện về các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp theo cái cách mà làm cho chúng không còn phản ánh các tín ngưỡng thật sự lúc ban đầu. Nhiều phiên bản thông dụng của các thần thoại Hy Lạp mà chúng ta có hôm nay thật ra lại có từ các câu chuyện kể hư cấu lại chứ không phải từ các câu chuyện thần thoại thật sự lúc ban đầu.

Thần thọai Hi Lạp - Bản Chất

1. Bản chất và nguồn gốc

Mặc dù tất cả các nền văn hóa trên thế giới đều có các thần thoại riêng của mình, thuật ngữ "thần thoại" trong các ngôn ngữ Tây phương (mythology trong tiếng Anh, mythologie trong tiếng Pháp, mitología trong tiếng Tây Ban Nha...) bắt nguồn từ người Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: μυθολογία - mythologia) và mang một ý nghĩa đặc biệt trong văn hóa Hy Lạp.

Thuật ngữ Hy Lạp mythologia là một từ ghép gồm hai từ đơn:

mythos — trong trường ca Homer của Hy Lạp cổ đại khái có nghĩa là "một bài diễn văn hay bài diễn ca được nghi thức hóa" của một thủ lĩnh ở một cuộc tập họp, hay của một nhà thơ hoặc một thầy tế.
logos — trong Hy Lạp cổ mang nghĩa là "một câu chuyện có sức thuyết phục, một lập luận chặt chẽ".
Vì thế, theo nguyên nghĩa, một thần thoại là một sự nỗ lực trong việc mang lại ý nghĩa cho các câu chuyện được cách điệu hóa mà người Hy Lạp đã kể trong các lễ hội, xì xào ở các đền đài và bàn tán trong các tiệc tùng của quý tộc. Vì ít người nào lại hay lý sự hơn các nhà thơ, các thầy tế và các quý tộc, các tài liệu thần thoại đầy dẫy các mâu thuẫn. Vả chăng, các mâu thuẫn này cũng mang một ý nghĩa hài hước.

Một vài nguồn tham khảo dùng trong việc nghiên cứu Thần thoại Hy Lạp bao gồm:

Thi ca của các thời kỳ Cổ Đại (bao gồm Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical)) — chủ yếu được sáng tác nhằm phục vụ cho các lễ hội tôn giáo hay các bữa tiệc quý tộc, cho nên là một phần của mythos theo nghĩa của Homer. Bao gồm:
Các tác phẩm của Homer: Odyssey, Iliad và Sử thi Homer (Homeric hymns).
Thần phả (Theogony) của Hesiod.
Các tác phẩm kịch nghệ của Aeschylus, Sophocles, Euripides và Aristophanes.
Các bài lễ ca của Pindarus và Bacchylides.
Các tác phẩm của các sử gia như Herodotus và Diodorus Siculus, và các nhà địa lý học như Pausanias và Strabon, những người đã đi khắp thế giới Hy Lạp và ghi nhận các câu chuyện họ đã nghe được ở các thành phố khác nhau.
Các tác phẩm của các nhà sưu tầm và ghi chép thần thoại, những người đã viết các chuyên luận bằng văn xuôi dựa vào các nghiên cứu học thuật mà cố gắng giải rối những chi tiết mâu thuẫn của các thi sĩ. Tác phẩm Bibliotheke của Apollodorus thành Athena là tác phẩm lớn nhất hiện có của thể loại này.
Thi ca của các thời đại văn minh Hellen và Roman cổ, dù được sáng tác thiên về mục đích văn học hơn là tôn giáo, nhưng vẫn chứa đựng nhiều chi tiết quan trọng, bao gồm các tác phẩm của:
Các thi sĩ thời Hellen như Apollonius của đảo Rhodes và Callimachus.
Các thi sĩ thời Roman như Hyginus, Ovid, Statius, Valerius Flaccus và Virgil.
Các thi sĩ Hy Lạp thời Hậu Cổ Đại như Nonnus và Quintus Smyrnaeus.
Các tiểu thuyết cổ của Apuleius, Petronius, Lollianus và Heliodorus.

Thần thọai Hi Lạp

Thần thoại Hy Lạp - Những bản trường ca bất tử ( sưu tầm )

--------------------------------------------------------------------------------

Thoạt nhìn tựa đề "Thần thoại Hy Lạp", có vẻ chẳng díng dáng gì đến Rock hay Metal. Nhưng thực tế, có rất rất nhiều metal bands chịu ảnh hưởng từ các câu chuyện truyền thuyết xuất phát từ Hy Lạp, đất nước được mệnh danh là "Land of The Heroes & Myths". Những bản trường ca của Rhapsody hay các nhạc phẩm nói về sử thi The Odyssey của Symphony X và nhiều tác phẩm khác nữa của Metal đều lấy cảm hứng và tư liệu từ thần thoại Hy Lạp. Trong các bài post tiếp theo, mọi người sẽ thấy xuất hiện rất nhiều cái tên truyền thuyết được đặt làm tên band nhạc. Những câu chuyện về Hy Lạp có rất nhiều phiên bản khác nhau, nguồn gốc và sự phát triển của thần thoại Hy Lạp hiện vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu...


***

Phần I: Giới thiệu khái quát

Thần thoại Hy Lạp là những truyện thần thoại của người Hy Lạp, bao gồm các truyền thuyết về các vị nam thần, nữ thần và các vị anh hùng của người Hy Lạp. Ban đầu, thần thoại Hy Lạp là những câu chuyện thơ truyền khẩu qua nhiều thế hệ. Các câu chuyện đó tồn tại đến ngày nay là nhờ các ghi chép về các câu chuyện truyền miệng nói trên, đôi khi chúng được bổ sung thêm các lời giải thích về các ý nghĩa biểu tượng hoặc các hàm ý khác có thể là hiện đại hoặc cổ điển. Nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu là tìm ra những ý nghĩa ban đầu được ẩn dấu trên các hình vẽ trên các bình gốm sứ, các bức họa,... hoặc đằng sau những nghi lễ tôn giáo còn tồn tại đến ngày nay.

Trong các truyền thuyết, câu chuyện và trường ca, tất cả các vị thần của Hy Lạp cổ đại đều được mô tả giống như hình dáng của con người, ngoại trừ một số sinh vật nửa người nửa thú như các nhân sư, số còn lại đều có nguồn gốc từ vùng Cận Đông và vùng Thổ Nhĩ Kỳ. Các vị thần Hy Lạp có thể sinh con nhưng trẻ mãi không già, không bị thương tổn, không ốm đau, có thể trở nên tàng hình, có thể di chuyển rất nhanh và có thể dùng người là phương tiện truyền đạt ý tưởng của họ mà người đó có thể biết hoặc không biết. Mỗi vị thần có một hình dáng, một nguồn gốc, một sở thích, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ quản lý; tuy nhiên, việc mô tả các thần thường xuất phát từ các dị bản khác nhau nên không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau. Khi các vị thần được vinh danh trong thơ ca hoặc khi cầu nguyện thì họ được coi như là một ý nghĩa tổng hợp gồm tên và trách nhiệm của các vị để phân biệt với các hình ảnh khác của các thần. Trách nhiệm của một vị thần có thể phản ánh một khía cạnh đặc biệt về vai trò của vị thần đó, ví dụ, Apollo, vị thần thơ ca là tên dành cho thần Apollo, được coi là người bảo trợ cho nghệ thuật: thơ, ca, nhạc, họa; người cầm đầu các tiên nữ thơ ca muse. Nhưng trách nhiệm của một vị thần cũng có thể dùng để phân biệt một khía cạnh đặc biệt nào đó của một vị thần.

Trong các truyện thần thoại Hy Lạp, các vị thần được mô tả là những người thuộc cùng một gia đình đa thế hệ. Vị thần già nhất tạo ra thế giới, nhưng các vị thần trẻ hơn đã thay thế các vị thần già. Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus là các vị thần quen thuộc nhất với tôn giáo Hy Lạp và nghệ thuật Hy Lạp và được mô tả trong các sử thi có hình dáng của con người trong "Thời đại của các anh hùng". Đó là các bài học mà tổ tiên người Hy Lạp phải học để có được các kỹ năng cần thiết, lòng kính sợ thần thánh, đề cao đức hành và trừng phạt tội lỗi. Các vị thần nửa người, nửa thần được gọi là các "anh hùng" và cho đến khi thiết lập được thể chế dân chủ, các hậu duệ người Hy Lạp xây dựng trên cơ sở của tổ tiên.

Power Metal NExt

Nói đến Power Metal, ai cũng tưởng rằng đó là 1 thứ nhạc ầm ĩ, vô giai điệu, vô ý nghĩa... nhưng đã nhầm... ai đã nghe HELLOWEEN - ông hoàng của Power Metal.
Helloween thành lập năm 1979. Họ đã chơi đủ thể loại rock, từ death metal đến Thrash rồi Power Metal...
Trong nhạc của Helloween ta luôn tìm thấy cái gì đó mới mẻ giữa các thể loại metal khác, dù ầm ĩ nhưng rất lôi kéo (chắc chắn khi nghe Helloween ai cũng vậy)... Mỗi ca khúc của họ là 1 giai điệu đặc sắc khác nhau (chứ ai như mấy ban death metal, black metal...)
Và nói đến Helloween không ai lại không biết album thành công nhất của họ, Master Of The Rings (1994), rồi albumThe Time Of The Oath (1996) - 1 tiếng vang vô cùng lớn trong lịch sử Power Metal, album nổi trội với những ca khúc có giai điệu "mượt mà" như If I Knew, rồi Forever And One (1 ca khúc đỉnh cao, và có 1 số người nói, chỉ có lớn lên thì mới hiểu hết ý nghĩa của ca khúc này... (?))...
Năm 2000, Helloween tung ra 1 mini disc If I Could Fly, tuy chỉ là 1 mini album nhưng ca khúc If I Could Fly đã đưa tên tuổi của Helloween trở thành bất tử...
EDGUY - hoàng tử kế thừa Helloween...
Edguy được thành lập năm 1995 với 5 thành viên Felix Bohnke sinh năm 1974 - người sáng lập ban, chơi trống. Dick Sauer sinh năm 1977, guitarist. Tombias Sammet sinh năm 1977, vocalist. Jen Ludwig sinh năm 1977, guitarist. Và cuối cùng là Tombias Exxel sinh năm 1973, bassist.
Nếu như vừa nghe Helloween rồi nghe tiếp Edguy thì rất khó phân biệt được. Dù là người kế vị của Helloween nhưng trong chất nhạc của Edguy luôn có cái gì đó "ổn" hơn Helloween.
Edguy đã phát hành được 6 album và 1 DVD Live 2003.
Thành công nhất đối với Edguy chính là album Vain Glory Opera (1998), album với những giai điệu nhẹ nhàng pha 1 chút thánh ca đã đưa tên tuổi Edguy xếp ngang hàng với Helloween. Đặc biệt ca khúc Overture và ca khúc Vain Glory Opera của Edguy (đều nằm trong album này) đã được đưa vào bộ phim giả tưởng Amagaddon.
Năm 2001, album Mandrake của Edguy cũng đã gây những tiếng vang lớn với các ca khúc phản đối chiến tranh Jerusalem, Tears Of A Mandrake...v.v.
PHANTOM STRANGER - sự hài hoà giữa Ballad và Power.
Phantom Stranger thành lập năm 1989 bởi 2 thành viên Joe Valente và Rob Wiley.
Sau 1 thời gian dài, Phantom Stranger ổn định ban nhạc với 6 thành viên. Patti Kutzler - Vocals/ Keyboard. Ray Underwood - Vocals. Rob Wiley Jr. - Guitar. John Salabounis - Guitar. Joe Valente III - Drums và Dan Allen - Bass.
Phantom Stranger là 1 ban nhạc rất đặc biệt, có thể vì 1 lý do nào đó, ban nhạc rất ít khi chụp ảnh cả ban nhạc mà thường chụp qua những hình hoạt hình.
Phantom Stranger cũng mới chỉ có 1 album có tên chính ban nhạc. Trong album, PStranger đã thành công tuyệt đối khi chơi 1 cách hài hoà 2 thể loại khá kị nhau, ballad và Power Metal.
Trong album này, nổi nhất và dường như ai nghe rock cũng biết nhưng có thể là do 1 vài ban khác thể hiện đó là Taken Away và Out Of The Time (Skid Row đã từng cover lại ca khúc này).

Statovirius
Stratovarius được thành lập năm 1984 bởi 3 chàng trai Phần lan :tay trống /ca sĩ Tu0mo Lassila ,tay bass John vilerva ,tay guitar Staffạn Nhạc cảu Stratovarius hồi đó khác xa bây giờ .Trở lại lúc ấy ,nó ảnh hưởng nặng bởi Black Sabbath&Ozzy ,Lấy tên là Black Water. tay guitarist Staffan đem đến những âm thanh classic đầu tiên .tay bassist John rời nhóm vào cuói năm 84 và thay thế là Jyrki Lentonen người chơi cùng với Timo tolkki tại một band gọi là Road Block .năm 85,Staffan ko muốn chơi ở nhóm nữa và anh ta rời nhóm cách ngày band có cuộc biểu diễn ở ĐAN MẠCH có một tuần .Tu0mo phone cho Timo Tolkki và mời anh này nhập bon. Timo đành học tất cả các ca khúc qua band catset và sau vài cuộc tập luyện, band đến Đan mach. vào thời gian này Tu0mo vẫn hát và chơi trống nhưng band cần một giọng ca khác vì giọng của Tu0mo ko ổn đinh. và Timo lãnh nhiệm vụ naylục này nhạc của nhóm đã rất gần với hiện tại :rất melodic và classic.. Timo đã đem lại sự ảnh hưởng sâu sắc của mình đôpí cvới band. họ tập luyện và tham gia biểu diễn ở Helsinki ,sau đó thu bản demo đầu tiên vào năm 1987đó là \"future shock\",\"fright night\",và \"night scrream\" .Các bản demo được gửi đến nhiều hãng đĩa khác nhau ở Phần lan và hãng CBS FINLAND đã kí với họ sau khi xem buổi diễn tại Tavastia Club..,Helsinkị Vào lúc này band có tay keyboard mới Antti Ikonen .Vậy là họ thu âm single đầu tiên \"future shock/witch Hunt \" vào năm 89 và cuối cùng là album \"fright night\" được hoàn thành vào tháng 5-89.Band liên tục có các buổi biểu diễn suốt mùa hè và thu 89.Và đỉnh cao là tham gia nhạc hội GIANT OF ROCK tại Hamenelinna với Anthrax và nhiều tên tuổi metal khác Tay bass Jurki lại rời nhóm .Những chất liệu mới đã hình thành nhưng hãng CBS ko quan tâm đến việc phát hành thêm album cho Stratovarius nữa, Band ko chịu thua,họ vẫn tập luyện những ca khúc mới và chuẩn bị thu âm album tiếp theo\"fright night\".Ngay sau khi tay bass mới xuất hiện (Jari Behm trong album \"twilight time\") thì lại rời nhóm ngaydo thấy mình ko hợp với phong cách chơi của cả nhóm
Album tiếp theo \"Stratovarius 2\" được ra đời vào đầu năm 92 tại Phần lan .rất nhiều bản đã được gửi khắp thế giới và hãng Shark Record muốn kí hợp đồng với Strato sau khi nghe bài \"hand of time\" Cuối cùng thì album \"stratovarius 2\" được ra đời với bản cover và có cái tên mới \"twilight time\" vào tháng 10-92 được tung ra khắp CHÂU ÂU Những bản copy đã nhanh chóng xuất hiện tại Nhật và \"twilight time \" đã nằm suốt 5 tháng liền trên bảng xếp hạng TOP 10 của Nhật Bản và trở thành best selling album năm 93 tại Nhât.Bband nhận được bản hợp đồng thu âm với hãng JVC VICTOR ENTERTAINMENT của Nhật để tung ra \"twilight time\" trên thị trường Nhật vào tháng 7-93. Timo Tolkki bay tới Nhật và được sự chào đón nồng nhiệt của các fan.trong thời gian rảnh giữa các lần giao dịch, Timo dành để sáng tác những ca khúc mới cho nhóm. tay bass mới Jari tham gia khoảng 70% các ca khúc trong album này .Nhưng khó khăn lại đến ,tay trống Tu0mo lại bị chấn thương ở tay và phải nghỉ trong 8 tuần lễ.và việc thu âm phải nhờ đến tay trống của nhóm Kingston Wall là Sami Kuoppamaki , chơi 4 tracks. Vậy là cuối cúng album thứ 3 \"dreamspace\" cũng được tung ra vào tháng 2 và 3_1994 . nó nhận được những klời khen ngợi nồng nhiệt từ phái các nhà bình luận và đưa Strato lên tầm cao mới.Nó chứa đựng âm thanh clasic điển hình của Strato mà điển hình là các ca khúc \"dreamspace\",\"4th reich\",\"chosing shadow\" .....vào tháng 6 ,band đến NhâtBản và thực hiện các buổi hoà nhạc tại Tokyo, Osaka, và Nagoya...để giao lưu trực tiếp với các fan ở Nhật Tại Phần lan họ cũng thực hiện 1 buổi biểu diễn tại Shadow club để ra mắt tay bass mới!!!Những cảm hứng lại đến trong suốt mùa xuân_hè 94 và band lại quay vào studio .Timo Tolkki thực hiện ước mơ ngày xưa của mình là thực hiện một album solo \"classical variations and themes\" có ca khúc \"fire dance suite\" được viết về Strato hồi những năm 86. và rất nhiều bản ảnh hưởng bởi chất nhạc clasic .album được tung ra vào tháng 10-94 và họ bắt đầu cắm đầu trong studio cho album thứ 4 .Lúc này Timo tolkki quyết định rằng giọng anh ko còn thích hợp nữa và band phải cần một vocalist riêng để đem âm nhạc của nhóm tiến xa nữa!!!!!
Những quảng cáo được đăng trên các tạp chí chuyên nghành âm nhạc và một người nào đó nhớ ra một gã ở Lappâjarvi ,Phần lan.người đx có cuộc tiếp xúc với band cách đó một năm rưỡi.vậy là Timo kotipelto nhận được phone của Timo tolkkki và việc kiểm tra nhanh chóng được tiến hành,band đưa ra một số ca khúc yêu cầu và ngay khi gã trai mở miệng ra hát câu đầu tiên thì mọi người đều biết hănchính là là ca sĩ mà nhóm đang cần.Giọng của Timo đã có thể được nghe ở album hứ tư của nhóm :\"four dimension\" cái tên của album đã nói lên tất cả ,âm thanh các ca khúc trong album này hoàn toàn có thể khác với trước kia nhưng nó vẫn mang âm hưởng điển hình của Strato .\"four dimension\" được tung ra vào tháng 3-95 và bán được gấp đôi \"dreamspace\" những show diễn được tổ chức khắp Đức,Hilạp,Thuỵ sĩ,Hà lan, Nhật bản....nhưng thật đau lòng, ngay sau loạt show diễn thành công này thì 2 công thần của nhóm là Tu0mo và Antti rời nhóm,.có quá nhiều lí do cho sự ra đi này nhưng lí do chính vẫn là vấn đề về y tế cá nhân và âm nhạc ko hợp với họ nữa, họ ko thể chơi thứ nhạc ,những cảm hứng hình thành trong đầu cuat Timo tolkki nữa! Sau thành công của đĩa \"four dimension\" 2 gã Timo muốn đưa âm nhạc của nhóm tiến xa hơn nữa .Tay trống mới Jorg Michael và tay keyboard Jens Johanson tham gia nhóm .vậy là band đã đủ 5 thành viên chính thức :
-TIMO KOTIPELTO: vocalist
-TIMO TOLKKI: guitarist
-JARI KAINULAINEN: bassist
-JENS JOHANSON: keyboard
-JORGMICHAEL: drummer
*CHƯƠNG 4 :thành công vang dội
album thứ 5 \"eposide\"được ra đời tại Finnvox studios ở Hensinki .albumnày là bước tiến dài của nhóm ,với thái độ nghiêm túc và đóng góp của Jen và Jorg ,kết quả là một album symphnic metal mang đạm chất kịch nghệ và giai điệu rất melodic ra đời. album này chứa đựng chất classic điển hình của Strato như \"father time\" ,\"eternity\" và \"will the sun rise?\" album tiếp theo \"vision\" ra đời vào tháng 4-97 và nhanh chóng leo vào vị trí thứ 5 trong top của Phần lan và nằm luôn trong TOP 40 những 24 tuần....\"vision \" thực sự là một đĩa thanhcồng của Strato ,có thể nói là đĩa hay nhất của hoj , nó làm cho fan của band ko chỉ giới hạn trong Phần lan, Nhật bản mà ở khắp châu âu và nam mỹ...nó nhận được đĩa vàng tại Phần lan và buổi đón nhận đĩa vàng đuổct chức tại Tavastia club vào ngày 10-6-98 với nmột buổi tiệc nhỏ và một buổi diễn đặc biệt với những ca khúc được chọn bất thường .Trong suốt các tour diễn vision , Strato bất đầu thu âm live album đầu tiên với đĩa đôi \"vision of europe\" dài hơn 100 phút và album thành công to lớn cả về phái các nhà phê bình lẫn các fan .Tháng 4-98 ,band bất đầu thu âm album thứ 7 \"destiny\" tại Finnvox studios, suốt mùa xuân -hè 98 và tung ra vào ngày 5-10-98 . single đầu tiên trích từ album là \"SOS\" được tung ra vào ngày 17-8 nhanh chóng chiếm vị trí số 3 tại bang xếp hạng Phần lan còn nhanh hơn tốc độ ánh sáng ....\"destiny\" leo lên vị trí số 1. \"điều đó cho chúng ta thấy đĩa vàng thứ 2 sẽ đến với chúng ta ko lâu nữa\" và sự thật đã diễn ra như vậy ,nó cũng dành được 1 ddĩa vàng..thành công liên tiếp đến với Strato , STRATOVARIUS được độc giả của tạp chí FINNISH METAL MAGAZINE \"SFP\" bầu là band metal xuất xắc nhất Phần lan năm 98. Video \"SOS\" được bầu là videometal xuất xắc nhất ..TIMO TOLKKI thì chiến thắng tuyệt đối trong \"best musician\" category lần thứ 2, STRATOVARIUS thì đứng thứ 2 \"best band\",TIMO KOTIPELTO thì được votes vị trí số 3 \"best singer\" category.\"DESTINY\" thì đứng vị trí số 2 \"best album \" và \"SOS\" thì thứ 2\" best song\".....cả hai gã TIMO đều có tên trong \"wonderful person\" category, còn JENS thì được bầu tại \"foreign musicians\" category.......
câu chuyện về STRATOVARIUS sẽ còn tiếp diễn!!!!
năm 2000 ,band cho ra album \"Infinity\" đây là album classic khá hay của band!! ko còn nhiều chất symphonic nữa, Timo tolkki thử sức trong việc sáng tác mới ,các ca khúc như \"mother gaía\" và \"infinity\" khác hẳn với các sáng tác trước đây!! có thể rất lạ so với chất nhạc tiêu biểu của Strato nhưng nghe kĩ ta thấy họ luôn đem một cái rất riêng vào âm nhạc của mình!!!
album \" INTERMISSION \" 2001 thì thực sự tôi chưa nghe qua nên ko dám bàn luận, nhưng điểm mới của album này là các ca khúc ko còn chỉ do Timo tolkki sáng tác nữa!! còn có sự tham gia của KOTIPELTO 2 bài JENS 3 bài và có cả ca khúc cover của Judas Priest, blackmore...có vẻ rất hấp dẫn!!!

Tuesday, March 25, 2008

Phổ thông [R] - Hardcore /Metalcore & Industeial Metal

Trong khi QUEENSRYCHE, FATES WARNING và RUSH đang tạo ra một thể loại nhạc phức tạp qua những lời ca chứa đựng một sự hiểu biết rộng từ triết lý đến khoa học giả tưởng, nhiều ban nhạc mới đã trình bày một thể loại khác gọi là Hardcore, đứa con của Heavy Metal và Punk Rock. Hardcore vì thế tương tự như Punk Rock vì dễ hiểu lời hát tuy vẫn đậm màu sắc chính trị, nền âm thanh là Heavy Metal, phổ biến nhất ở 2 thành phố Washington DC và New York City. Trong đó đáng kể đến trước tiên là BAD BRAINS, ban nhạc chơi loại Hardcore tinh vi nhất với một hỗn hợp của Jazz, Reggae, Metal, Punk, điển hình qua các đĩa “I against I” và “Rock For Light”. Ban nhạc BLACK FLAG muốn như nổi lửa khắp thế giới với những câu lập đi lập lại như “I’ve heard it all before, don’t wanna hear it again” (tạm dịch như là “Nghe rồi, khổ lắm, nói mãi”). Giọng hát của Henry Rollin gào thét thất thường, tiếng đàn của Greg Ginn nghe rất nghịch tai, tất cả được gói ghém lại trong đĩa “Damaged” rất thành công trong năm 1981. Đồng lúc đó, ban nhạc DEAD KENEDYS là đại diện cho quan điểm chính trị rõ ràng nhất qua các tác phẩm mà Jello Biafra là bộ óc chính. MINOR THREAT đứng hẳn về phía chống chủ nghĩa tuân thủ pháp luật qua những màn trình diển rất sôi nổi của họ. Đóng góp cho sân khấu Hardcore trong triều đại của Pop Metal còn phải kể đến nhiều ban nhạc khác nữa như là THE CIRCLE JERKS, D.O.A., HUSKER DU, MURPHY´S LAW ….

Trong khi BLACK FLAG và BAD BRAINS là 2 ban nhạc luôn đặt các ty cảnh sát khắp nước Mỹ trong một tình trạng báo động, nhiều ban khác đã chuyển hướng từ Hardcore tinh khiết sang Metalcore mà phần cơ bản vẫn là kết hợp với Heavy Metal. DISCHARGE là ban nhạc đầu tiên khởi xướng phong trào này qua bài “Hear Nothing, See Nothing, Say nothing” trong đĩa “Never Again” năm 84. Sự thành công này dẫn đầu cho hàng loạt các ban nhạc nổi danh khác trong suốt thời kỳ 80 sau đó như DIRTY ROTTEN IMBECILES (viết tắt là D.I.R. chuyên kết hợp hardcore với thrash) đã cho ra đời những đĩa tiêu biểu như “Crossover” và “Definition”, CORROSION OF CONFORMITY qua đĩa “Eye for an Eye” và “Animosity” (**). Hai ban nhạc này được đánh giá có công lao nhất lôi kéo sự chú ý của giới hâm mộ Hardcore/Heavy Metal nhiều nhất và dọn mâm cỗ sang trọng ngon lành cho ban nhạc theo sau là STORMTROOPERS OF DEATH (S.O.D.). Đĩa “Speak English Or Die” có lẽ là một đĩa với những lời mỉa mai, châm biếm kiểu “khôi hài đen” nhất trong thể loại Crossover này! Ca sĩ Billy Milano cùng các thành viên khác trong ban này (xuất thân từ các ban nhạc Antrax và Nuclear Assault) đã được mệnh danh là ban nhạc Metalcore xuất sắt nhất. Sự mong mỏi được trông thấy ngày tái hợp của ban nhạc đã được thỏa mãn qua đĩa “Bigger Than The Devil” năm 1999. Thể loại Crossover này hiện nay không gặt hái được sự thành công đáng kể như trong những năm 80 và Hardcore chỉ còn tìm thấy ẩn hiện đâu đó qua những ban nhạc như FUGAZI (87), THE JESUS LIZARD (87), MADBALL (94) và BIOHAZARD (88).

Khoảng 5 năm sau chót của thời 80, một thể loại Heavy Metal khác bắt đầu trỗi dậy bước vào thương trường. Đó là Industrial Metal với đặc trưng nổi bật nhất là việc sử dụng các nhạc cụ điện tử như “drum machines” (trống máy) và “synthesizers” (dàn máy tạo ra được nhiều âm thanh khác nhau). Người ta nhớ lại sáng kiến này đã do ban nhạc SWANS (***) và KILLING JOE trình làng. Nhưng Industrial Metal chỉ thực sự phát triển nhanh chóng nhờ những phát pháo của các ban như SKINNY PUPPY, CONTROLLED BLEEDING, COP SHOOT COP và GODFLESH, tuy rằng nhìn chung, phong trào này còn nằm trong tầm nhìn xa xăm của mọi người. Đột phát cuối cùng là do ban MINISTRY của Alain Jourgensen (người Cuba) và những đĩa cực kỳ gây ấn tượng mạnh là “Twitch”, “The Mind Is A Terrible Thing To Taste” và “Psalm 69: The Way to Succeed & The Way to Suck Eggs”. Đoạn video của bài nhạc “Jesus Built My Hotrod” được ưa chuộng nhất, còn những bài như “Just One Fix” đã giúp cho việc duy trì sự lớn mạnh của Industrial Metal.

Chú thích thêm :

** Sự thực là yếu tố Punk còn phảng phất rất nhiều qua lời ca mang nét chính trị, tuy rằng không còn thẳng thừng nữa mà tinh tế hơn.

*** Lúc đó, Swans đã làm mọi người bối rối, và họ đã nhận được đủ thứ danh hiệu cho lối chơi này, nào là Experimental rock, Noise Rock, Dark Ambient… Ở đây, tác giả phân biệt giữa Hardcore và Metalcore như 2 thể loại khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn là một, đó là HARDCORE PUNK, một thể hình về âm nhạc và tư tưởng giống hệt PUNK. Sự khác biệt đôi chút phải nói là „quá khích“ hơn, từ sự diễn tả qua hình thức đến nội dung, tất cả như đã được đưa lên chót vót đỉnh nhọn của một ngọn núi, không còn khả năng nào tiến thêm nữa, họa may là „bay” lên! Các ban nhạc này vì thế mà không sống dai? Tất cả đều giải tán 2, 3 năm sau đó. Hardcore/Metalcore dừng chân lại vĩnh viễn trên đỉnh núi hoặc đã biến mất? Industrial Metal và Hardcore/Metalcore cùng gặp nhau trên một đường đi. Các ban nhạc có chung một suy nghĩ điên cuồng giận dữ về xã hội đương thời và bày tỏ chúng qua một bức tường âm thanh dày đặc những tiếng ghit-ta méo mó, sắt cạnh, lập đi lập lại không ngừng… Trong số đó, chỉ có Nine Inch Nails (89) tỏ một thái độ “mềm” hơn một chút với những giai điệu nghe “mỏng” hơn và cũng nhờ thế mà thể loại Industrial Metal đến gần với mọi người hơn, nhất là qua đĩa “Pretty Hate Machine”. Sự việc tiếp cận được với quần chúng đó đã mang thể loại Industrial Metal này vào dòng nhạc Alternative Metal chính mà không đánh mất nguồn gốc của mình là Hardcore Punk .

Nguồn từ Internet .

Monday, March 24, 2008

Phổ thông [R] - Doom Metal – Gothic Metal

Phát sinh từ Thrash Metal với lối chơi càng nhanh càng tốt tạo thành một thời trang cho những ban nhạc “nặng”, nhưng cũng có nhiều nhạc sĩ đã quyết định chơi ngược lại, nghĩa là càng chậm càng thích. Ngừơi ta đã bắt đầu nhận thấy điều này qua WITCHFINDER GENERAL, TROUBLE và SAINT VITUS. Các band này nằm trong danh sách những ban nhạc hay nhất từ thời kỳ của BLACK SABBATH đã tiến dần sang một tính cách mới của metal qua những đoạn riff mạnh bạo và thỉnh thoảng chêm vào những khúc nhạc buồn thê lương. Sau đó, có nhiều ban nhạc tiếp tục con đường vừa mới khai thông của họ và làm cho khung cảnh trầm buồn không nhìn thấy bầu trời ấy thêm một độ cao. ANGEL WITCH chẳng hạn, tự xếp mình vào hàng ngũ và đã đi đầu trong việc mang hết những làn hơi của Doom Metal vào các sáng tác của mình cộng với chất giọng rất phù hợp với thể loại này là opera. Điển hình là CANDELMASS của Thuỵ Điển qua đĩa “Epicus Doomicus Metallicus”. PENTAGRAM cũng còn đấy, xuất hiện trở lại cùng lúc với OBSESSED và DREAM DEATH (sau này đổi thành PENANCE).

Doom Metal tuy thế cũng chưa thể hiện được một sự diễn đạt như ý cho đến khi PARADISE LOST và CATHEDRAL xuất hiện (thành viên cũ của các ban nhạc chuyên chơi death, thrash và punk). Với đĩa “Gothic”, Paradise Lost đã kết hợp âm thanh keyboard trải dài làm nền với tiếng ghi-ta đánh vụt nhanh rồi chìm hẳn trong khi giọng hát vẫn mang âm hưởng của Death Metal và vì thế được gọi là “doom-death”. Ban nhạc Cathedral làm sống lại hình ảnh của một Black Sabbath tân thời sau khi cũng thử nghiệm với chất doom-death vừa kể và còn tăng thêm nỗi hãi hùng qua tiếng gào thét đến chói tai. Với sự thành công của hai ban nhạc này, nhiều ban nhạc mới sinh ra đời và Doom Metal trở nên chìm lắng trong một sắc thái vô cùng đa dạng: dàn nhạc với nhiều nhạc cụ khác nhau, giọng hát soprano, âm thanh “nặng nề” của Death Metal, ca sĩ nữ là chính, nhưng toàn cảnh vẫn không mất đi sắc thái chậm rãi, kỳ dị và tràn đầy xúc cảm. Trong thế giới metal dần dần xuất hiện nhiều ban nhạc muôn hình muôn vẻ, kiểu Death là những ban nhạc như SORROW, CREMATORY và OPTHALAMIA * qua đĩa đầu tay “Journey in Darkness”; kiểu Sabbath là COUNT RAVEN, SLEEP, INTERNAL VOID và IRON MAN; kiểu chính thống phải kể đến là SOLITUDE AETURNUS và MEMENTO MORI; theo lối Louisiana(**) và Crowbar là EYEHATEGOD; còn MY DYING BRIDE và ANATHEMA thuộc phái tiến hóa.

Gần đây, Doom Metal càng ngày càng mang đậm chất gothic và âm thanh nghe như bao trùm đầy ắp bầu khí quyển mà giọng nữ soprano nay lại song hoà với giọng nam trầm lắng hầu như trở thành chủ lực. THEATRE OF TRAGEDY và TRISTANIA có lẽ đã được thành lập để đại diện cho tính chất mới này. Dĩ nhiên điều khẳng định này không hạn chế chỉ bởi 2 ban nhạc này mà bỏ quên những ban nhạc mới nhập vào dòng cũng như nhiều yếu tố khác cho thấy sự phân biệt tinh vi của Doom Metal. TIAMAT và THE 3rd AND THE MORTAL đã sử dụng đàn thùng nhiều hơn, đôi khi gợi nhớ lại hình ảnh của Pink Floyd khi trước. Theatre of Tragedy còn chuyển hết toàn bộ các nhạc cụ sang thành một dàn điện tử bắt đầu từ đĩa “Aegis” (***) cho thấy sự kết hợp chặt chẽ giữa gothic và metal một cách tài tình. Trong khi đó, trở lại thời 80 và đứng ngoài sân khấu Doom Metal là Glenn Danzig (sau khi THE MISFITS tan vỡ đã thành lập ban SAMHAIN năm 83). Âm thanh của Samhain còn nặng hơn, gây “sốc” nhiều hơn The Misfits khi trước. Nhưng sau khi thu âm đĩa “November-Coming-Fire”, Danzig lại giải tán Samhain và lập ra ban nhạc mang tên mình là DANZIG. Đĩa nhạc cùng tên anh “Danzig” diễn tả một trạng thái bất đồng giữa giai điệu và cường tráng, tất cả như xoáy vào tâm hồn sâu sắc của anh. Phong cách duy nhất vô song này được thể hiện trong suốt 4 đĩa đáng chú ý nhất của anh, gợi cho thính giả nhớ lại thời kỳ của Black Sabbath cùng với hình ảnh ma quái của Satan và chỉ được chuyển hướng sau khi thể loại Industrial Metal xuất hiện sau này. Song song với những ban nhạc vừa kể trên, LOUDNESS (được biết đến tại những nơi khác ngoài Nhật từ năm 85 với đĩa “Thunder in the East”) và KING DIAMOND (ca sĩ King Diamond trước là thành viên trong ban Mercyful Fate) cũng giữ được âm thanh nguyên thủy của heavy metal suốt thập niên 80. Sau đó, King Diamond dần dà từ bỏ Speed Metal cũng như đổi giọng hát giữa những đoạn trầm như đang lẩm bẩm một mình với tiếng kêu thét vang kinh dị. Trong khi đó, ban nhạc Loudness của xứ Phù tang vẫn phát hành những đĩa đầy sắc thái mạnh mẽ như “Soldier of Fortune” (tên đĩa này trùng hợp với nhiều đĩa của các ban nhạc khác như Thin Lizzy, Deep Purple, Eric Burdon). Các ban như GWAR (God What an Awful Racket), HAUNTED GARAGE, GREEN JELLY hầu như chỉ gây ấn tượng qua phần trình diễn thời trang, sân khấu và phim ảnh nhiều hơn là âm nhạc. Ban nhạc W.A.S.P. được lắm kẻ ưa nhiều người ghét cũng nằm trong danh sách này.

Chú thích thêm:

* Tác giả viết là Winter nhưng đó là tay trống của ban nhạc Edge of Sanity. Ban nhạc Opthalamia là một ban phụ được thành lập bởi ca sĩ Legion của Marduk, tay ghi-ta của Vondur là anh chàng It, tay bass Night trong ban Swordmaster và Winter như đã nói.

** Chính ra là The Louisiana First Mass Choir với đĩa duy nhất là “I belong to God” và những giọng ca mạnh, trữ tình tha thiết của Tramaine Hawkins, Ruby Terry, Edwin Hawkins và Lynette Hawkins-Stephens

*** Đĩa này đặc biệt ca tụng các vị nữ thần đẹp tuyệt trần như Venus, Siren, Poppapea, Lorelei…

Nguồn từ Internet

Phổ thông [R] - Death Metal& Death Metal

Từ Thrash Metal, một dòng nhạc metal cực kỳ ác liệt khác từ trước đến giờ được sinh ra đời: DEATH METAL. Những ban nhạc đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của thể loại này là HELLHAMMER với đĩa “Apocalyptic Raids 1990 A.D.”, DEATH với “Scream Bloody Gore” và THE POSSESED trong đĩa “Seven Churches” năm 85 mà sự thành công về thương mại của họ chưa hề được bàn đến. Tiếng ghi-ta nặng nề như dây đàn bị chùng xuống hết mức, nhịp điệu thay đổi từ tốc độ nhanh như sắp gây ra tai nạn trên đường xa lộ cho đến chậm chạp như răng ai nghiến khi giận dữ nhưng không dừng hẳn lại được, tiếng trống với 2 bàn đạp là căn bản, còn ca sĩ thì đổi giọng lanh lảnh đến như muốn làm thủng màng nhĩ người nghe sang giọng gầm gừ như không thoát ra khỏi yết hầu, tất cả chỉ có thể nhận thức bằng trí óc thôi! Đĩa “Welcome to Hell” của ban nhạc VENOM đã cho thấy sự trỗi dậy của Death Metal rất là tinh tế mà các ban nhạc khác chỉ còn một nhiệm vụ là đoan chắc điều này một lần nữa. CELTIC FROST bắt đầu nối tiếp sự nghiệp Death metal qua những màn trình diễn của họ sau đó, nhưng tiếc thay, chính vào lúc này, các ban nhạc metal khác lại chuyển hướng sang Metalcore nên Death Metal bị lung lay tận gốc rễ. Sau đó các ban nhạc SEPULTURA, OBITUARY và MORBID ANGEL đã cố gắng khai quật lại nấm mồ của Death Metal. “Beneath The Remains” của Sepultura và “Slowly We Rot” của Obituary đã vực dậy được sự yêu thích của các fan và kéo lên được bức màn Death Metal lên đến đỉnh sân khấu thành một dòng nhạc metal mạnh mẽ, đẩy mạnh phong trào cho các ban nhạc mới xuất hiện cũng như thổi một khí lực mới vào các ban nhạc như MALEVOLENT CREATION, CANNIBAL CORPSE, FUDGE TUNNEL và các ban cải cách (Progressive) khác như BELIEVER, PESTILENCE, ATHEIST và CYNIC. Đặc biệt cho những ai thích dòng nhạc jazz cũng có thể tìm thấy cảm hứng lạ lùng của jazz-death metal qua 3 ban nhạc vừa kể sau.

Phải nói rằng, thể loại Death Metal sống mạnh nhất tại Thụy Điển, nơi mà ban nhạc ENTOMBED chứng tỏ được truyền thống của dòng nhạc và gợi hứng cho những ban nhạc theo sau khác như là DISMEMBER, EDGE OF SANITY và HYPOCRISY. Tuy nhiên, Death Metal vẫn tự đình trệ trong việc sử dụng lại các bài bản với khuôn phép như đã học thuộc lòng. Trái ngược với sự thành công vững chắc của MORBID ANGEL hoặc là DEICIDE cũng như song song với việc thường xuyên cải tiến kỹ thuật của DEATH trong các đĩa “Human”, “Individual Thought Patterns” và “Symbolic”, những ban nhạc mới lại dậm chân tại chỗ và thay vì sửa sai, đổi mới, họ đã giúp cho việc dựng lại tấm bia trước mồ chôn Death Metal! Trong những năm cuối thời 80, Death Metal có một biến dạng cực đoan khác là GRINDCORE mà nó cũng muốn tách ra khỏi nguồn và tự lập. Không ngần ngại mà cho rằng NAPALM DEATH là đại diện tiêu biểu qua những đĩa như “Scum”, “Harmony Corruption” và “Utopia Banished” với một âm thanh kể như không còn yếu tố nào gọi là có hoà âm hay có giai điệu nào cả. Thể loại này xem như là biên kỳ tuyệt đối của Heavy Metal, bởi vì nó phá vỡ hoàn toàn các kết cấu âm nhạc để dựng lên một loại mới mà hiếm ai cũng có thể gọi đó là nhạc được! Chính vì đặc điểm này mà Grindcore chỉ chợt loé sáng như những ban nhạc SCORN, các ban nhạc khác như CARCASS, GODFLESH, TREPONEM PAL hoặc PITHSHIFTER đã dần chuyển sang hướng khác tương đối “vào quỹ đạo” hơn. Trong khi đó, đầu những năm 90 những ban nhạc như TIAMAT, THERION, SENTENCED và CEMETARY hoàn toàn loại bỏ âm thanh Death Metal và truy tầm nhiều tính chất khác như Progressive, Doom và Classic trong các sáng tác của họ. Điều này gây ảnh hưởng đến các ban nhạc khác trong việc sáng tạo một dòng nhạc Death Metal vì nhiều khuynh hướng khác nhau và phức tạp trong việc nhận dạng thể loại này. CARCASS và đĩa “Heartwork” năm 94 của họ đã lót đường cho một luồng gió mới thổi vào cái nôi của phong trào NWOSDM (New Wave Of Swedish Death Metal). AT THE GATES, DARK TRANQUILLITY và IN FLAMES khởi xướng theo với sự kết hợp sức mạnh của Death Metal và giọng hát của ca sĩ cùng với một giai điệu du dương hơn. Có ý kiến cho rằng, tính chất mới của thể loại này giống như khi ta tưởng tượng đang nghe IRON MAIDEN chơi Death Metal với một sự mê đắm dữ dội, kết quả của việc sáng tác hài lòng vừa ý nhất, sự biểu diễn tài tình của các nhạc sĩ và nhất là cảm giác tuyệt vời của giai điệu nhạc làm rung động ta hơn.

Tuy là một nhánh của Death Metal, BLACK METAL đứng hẳn một bên góc khác và được xem là một loại nhạc ồn ào chỉ được phát hành thật ít. “Black” là màu đen theo nghĩa hẹp, và rộng hơn là hình ảnh của Satan mà trước kia, vào những năm đầu thời 80 ai cũng biết đến qua ban nhạc BATHORY. Mặc dù các ban như SLAYER và VENOM được mệnh danh là Black Metal trong thời bởi vì những hình ảnh ma quái của quỷ Satan, tính chất trung thực nhất để diễn tả Black Metal chỉ qua những bài thành công nhất của BATHORY. Đó là những tiếng than thở như vang rền từ lòng đất làm rối bời tai người nghe vì có cảm giác như tiếng ấy không thoát lên khỏi mặt đất được, đó là những nhịp phách của trống đánh như trời gầm, tiếng đàn điện đôi khi vô cùng “ngược tông” (distorted) nhưng vẫn giữ âm lượng vừa phải, tuyệt đối không có giai điệu gì, chỉ bàng bạc một hình tượng Satan huyền ảo và ngoại giáo. Ngay sau khi luồng sóng âm thanh của Black Metal bắt đầu được truyền đi, nước Na Uy đã cung cấp ngay những ban nhạc theo chủ nghĩa hư vô này qua các ban nhạc IMMORTAL, DARKTHRONE, BURZUM nối gót MAYHEM là một ban nhạc không thể nào không được nhớ đến chất hoang dã đến tận cùng của họ.

Làn sóng thứ nhì của Black Metal vẫn còn hiện hữu đến ngày nay và trở thành phổ biến trong thời kỳ 90 là các ban nhạc như CRADLE OF FILTH, EMPEROR, SATYRICON, DIMMU BORGIR và DARK FUNERAL. Họ đã mang thêm vào các sáng tác nhiều yếu tố tác động mới qua việc tăng thêm tiếng đàn keyboard tạo vẻ huyền bí và nhạc dân ca của xứ Scandinavi. Mặc dù bắt đầu từ đây họ đã rời bỏ tính chất phạm tội của những ban nhạc tiền phong trong quá khứ, âm thanh Black Metal vẫn hoang dại, không nhượng bộ trước một phản công nào và chịu hưởng một chút lợi nhuận trên thương trường mặc dù đã hiên ngang vượt qua biên giới của trào lưu cũ mang lại một phong cách mới cho Black Metal. Trong khi đó, những thần tượng xưa kia như SAMAEL và BATHORY đã thoát hẳn ra bản rập khuôn cũ từ lâu. Samael chẳng hạn, được xem như là một ban nhạc Black Metal chính thống đã giới thiệu trong đĩa “Passage” những bài nhạc có tiết tấu chậm hơn xưa nhưng lời nhạc “đen tối” hơn, tiếng trống, tiếng đàn kể cả giọng hát đều được đắm mình trong một dàn hoà âm điện tử vĩ đại.

Nguồn từ Internet

Phổ thông [R] - Thrash và Power Metal

Trong khi Pop Metal bao trùm khắp nơi, các fan của MOTÖRHEAD và VENOM tỏ ra hoang mang khi nhận thấy Metal đã trở nên ngày càng “nhẹ” hơn. Điều đó cũng có nghĩa là đã để cho Pop Metal tiến dần vào dòng nhạc chính. Nhưng họ đã yên tâm nhanh chóng trở lại khi nghe làn âm thanh Thrash/Speed/Power metal trổi lên; dẫn đầu là ban nhạc METALLICA (81). (Power Metal đôi khi được tách rời ra nhóm thể loại này vì đặc điểm “epic” -sử thi- của bài nhạc). Metallica bắt đầu sử dụng kết hợp những đoạn riff phức tạp, giọng ca hệt như đang gầm gừ và dàn trống có hai bàn đạp để tạo ra một âm thanh kiên quyết và hung bạo mà vì thế không được chương trình phát hình MTV cũng như các đài phát thanh ủng hộ. Sau đó một thời gian ngắn, sự phát triển rất mạnh của MERCYFUL FATE và EXODUS (một ban nhạc Thrash Metal quan trọng của vùng Bay Area San Francisco) đã cùng với Metallica hội tụ các fan nghe nhạc “hard metal” lại gần nhau hơn. Trong thời điểm này, có 3 ban nhạc khác cũng song hành với Metallica là MEGADETH, ANTHRAX và SLAYER. Megadeth được thành lập bởi Dave Mustaine (trước đàn trong ban Metallica) đã tạo ra một âm thanh mà sau này được mệnh danh là Techno-Thrash. Đặc điểm của lối chơi này là thay đổi nhiều nhịp điệu và các đoạn riff cực kỳ phức tạp làm nền cho giọng hát như “gầm gừ” của Mustaine. Trong khi đó, Anthrax chuyên chơi các đoạn riff như đánh tới tấp và thử nghiệm thể loại Rap. Slayer mạnh bạo hơn với những cú riff đập thật mạnh trong khi các thành viên khác khai thác triệt để cái gọi là “hình tượng Sa-tăng”. Ban nhạc SUICIDAL TENDENCIES cũng đạt được mức độ thành công đáng kể với đĩa “Lights…Camera…Revolution” kết hợp chặt chẽ ảnh hưởng của thể loại Punk, Alternative, Rap với giọng ca như đang dạo chơi lang thang của Mike Muir. Nếu kể đến TESTAMENT, phải nhắc đến thời giữa những năm 80, họ đã thành công vang dội qua những đĩa như “Pratice What You Preach” và ngay cả đĩa “Souls of Black” dù không thỏa mãn yêu cầu của các fan hoàn toàn. Phải nhấn mạnh thêm, Testament đã được mệnh danh là 1 trong 4 ban gọi là “Big Four” (Tứ Trụ) của thể loại Thrash trước khi Slayer vượt qua mặt với tuyệt phẩm mà ai cũng cho rằng là một trong những đĩa nhạc Thrash hung bạo nhất đến nay: “Reign In Blood” (86).

Toàn bộ phông cảnh này sẽ bị hạ xuống từ lâu nếu không có sự ủng hộ của cả một hậu trường kỹ thuật vĩ đại mà các bài thử nghiệm (demo) và thu âm chính (record) được nhanh chóng trao đổi cũng như được phân phối khắp toàn thế giới. Các ban nhạc như EXCITER, OVERKILL, NUCLEAR ASSAULT, DARK ANGEL và một số ban khác tuy không nổi tiếng rầm rộ nhưng cũng được biết đến qua thể loại Thrash này đã tạo được sự phát triển của phong trào một cách mạnh mẽ. Thêm vào đó, ngoài các ban nhạc chiếm chủ lực trong vùng San Francisco Bay Area nói trên, nước Đức đã bồi dưỡng cho sự nhiệt tình sôi nổi toàn diện trên thế giới được gọi là quan trọng nhất trong bức màn Thrash Metal này với sự ra đời của những ban nhạc như DESTRUCTION, KREATOR, TANKARD và SODOM. Sự cung cấp tài năng cho phong trào này giống như là tiêm thêm một liều thuốc vào sự kiện mà thời đó được gọi là “Teutonic Thrash” (teutonic = thuộc chủng tộc Đức). Nhưng tóm lại, mặc dù thế, Thrash Metal vẫn chưa đạt được tuyệt đỉnh huy hoàng mà nó đang cố gắng phấn đấu… Cuối cùng, năm 1986, Thrash Metal mới thành công thực sự với siêu phẩm “Master Of Puppets” của Metallica. Đĩa này đã mang lại một đĩa vàng cho họ sau khi bán được trên 500.000 đĩa. Sự kiện này đã phóng nhanh Slayer, Anthax và Megadeth vào quỹ đạo; kể như Thrash Metal đã hoàn toàn làm chủ trên thương trường. Câu trả lời cho Pop Metal đã thỏa đáp bởi sự hình thành một thể loại âm nhạc ác liệt nhất và nhất định không nhượng bộ! Tuy vậy, cũng giống như Pop Metal, có rất nhiều ban nhạc xuất sắc khác không đạt được đúng sự mong muốn của họ, thí dụ như FLOTSAM & JEZSAM, WRANTHCHILD AMERICA, SACRED REICH, ANVIL, CORONER và MEKONG DELTA. Họ đã sáng tác nhiều đĩa thật hay nhưng không bao giờ được ủng hộ đầy đủ. Ban nhạc VOIVOD cũng không được đón nhận hoàn toàn sau khi đã chuyển sang hướng Progressive Thrash Metal. Một thời gian sau đó, ban nhạc ANGEL RAT đã làm nổi bật một dòng âm thanh khác lạ đối nghịch với những ban sáng chói như DIMENSION HARTOSS và NOTHINGFACE, nhưng tiếc thay, họ không xâm nhập được thị trường như ước muốn.

Một khuynh hướng khác bất ngờ xảy ra trong những năm cuối thời kỳ 80 chiếm được ảnh hưởng sâu đậm trong làng nhạc chính là Power Metal. Đó là một thể loại dựa trên “tốc độ nhanh” và “âm thanh mạnh bạo” của Speed Metal kết hợp với những bài nhạc mang chủ đề có tính chất anh hùng ca (epic). Đặc trưng của Classic Metal vì thế như được nhân gấp bội. Power Metal có thể được chia thành 2 loại, căn bản là loại “American” mà điển hình là các ban như METAL CHURCH, SAVATAGE, JAG PANZER và MANOWAR. Một dạng khác bất chấp tỷ lệ phải có của tính chất “epic” nói trên kế thừa bởi Thrash Metal và vẫn nghiêng về phần trình diễn gay gắt, ác nghiệt hơn. Trong khi đó, Melodic Power Metal hay còn gọi là Power Metal của Âu châu là một thể loại tập trung vào sự kết hợp giữa “speed” (tốc độ nhanh) và “classic” (cổ điển), thỉnh thoảng chêm vào một chút cải tiến mà các ban nhạc như RUNNING WILD và đặc biệt là RAGE đã chơi. Tuy thế, Power Metal chưa được phổ biến rộng rãi cho đến khi đĩa “Keeper Of The Seven Keys” của HELLOWEEN (84) được tiêu thụ trên 1 triệu bản. Giọng ca của Michael Kiske làm mọi người sững sờ kinh ngạc! Anh đã đưa Helloween thành một hình ảnh riêng của Power Metal với những giai điệu, hoà âm không bao giờ quên được mà trước đây người ta tưởng chỉ nhận thấy qua Iron Maiden (76). Toàn bộ sự việc này tạo thành một chấn động thình lình cho Power Metal, gây cảm hứng cho những ban nhạc khác đồng loạt xuất hiện như BLIND GUARDIAN (8) và ICED EARTH (91) cũng như đã thúc đẩy các ban nhạc cựu trào Proto-Power Metal như RIOT (73) thích ứng ngay vào phong trào.

Sunday, March 23, 2008

Phổ thông [R] - Pop Metal

Trong khi Punk đang làm rung chuyển nền tảng của Rock & Roll thì Heavy Metal trở lại với JUDAS PRIEST, SCORPIONS, ACCEPT và phong trào đột phát ngắn ngủi New Wave of British Heavy Metal (NWOBHM). Cao trào có tính chất trọng đại này phát xuất từ Anh quốc với các ban nhạc được hồ hởi đón chào như DIAMOND HEAD, DEF LEPPARD, HOLOCAUST, IRON MAIDEN, SAXON, SAMSON, TYGERS OF PAN TANG, VENOM, RAVEN và SWEET SAVAGE. Trong những ban nhạc vừa kể chỉ có IRON MAIDEN và DEF LEPPARD tồn tại lâu dài; SAXON thành công cực kỳ nhưng chỉ trong một giai đọan thật ngắn. JUDAS PRIEST muốn đại chúng hóa các sản phẩm đồ da, giầy ống, đinh đóng làm biểu tượng cho nhạc Metal; SCORPIONS thì biểu dương tài năng qua một loạt các đĩa thành công rực rỡ như “Virgin Killer”, “Lovedrive” và “Blackout” với cả hai sở trường đồng thời là Ballad và Heavy. Ban nhạc ACCEPT đã chứng tỏ tài năng vững vàng của họ và thể loại Proto-Power Metal qua các đĩa như “Breaker” và “Restless and Wild”. Cùng thời gian đó, IRON MAIDEN đã mang lại hình ảnh huyền thoại của Heavy Metal qua các đoạn riff mạnh bạo trong các album như “Killers”, “Piece of Mind”, “Powerslave” và giữ vững thế đứng trong làng nhạc Hard Rock nhiều năm cho tới khi METALLICA xuất hiện.

Trong khi tiếng bass của Iron Maiden trình bày vẫn ầm ầm như sấm (cộng với các đoạn riff là một sự phối hợp thường gọi là Classic Metal), ban nhạc VENOM đã giới thiệu một thể loại mới khác là Thrash Metal trong các đĩa “Black Metal” và “Welcome to Hell”. Có thể nói đó là nền tảng của thể nhạc Death và Black metal sau này. Trước đó, ban nhạc VENOM chỉ là một nhóm chơi nhạc không chính thức với tên gọi là Oberon, nay đã trở thành một ban nhạc cực mạnh trong thời kỳ này, cùng với MOTÖRHEAD, STAINED CLASS và RIOT với âm thanh mạnh mẽ khác thường đã truyền cảm hứng cho các ban nhạc mới nổi như METALLICA, EXODUS, SLAYER và MANTAS (sau này là DEATH). Những ban nhạc này đạt tới một lối chơi riêng biệt thật sinh động và tốc độ thật nhanh. Vai trò của New Wave of British Heavy Metal tuy hiện hữu không bao lâu cũng đã được đánh giá cao hơn là việc kích thích được sự phục hưng thể loại Heavy Metal tại Anh quốc. Nó đã mang lại sức sống cho tuổi trẻ sẵn tràn đầy sinh lực, một sự sáng tạo phong phú không ngừng cho âm nhạc, tạo ra một sức truyền cảm mãnh liệt, một con đường cho Heavy Metal tiến hóa suốt thập niên 80. Với các ban nhạc sử dụng riff là cơ bản như JAGUAR, WITCHFYNDE kiểu cách, DIAMOND HEAD tài nghệ không lường, ANGEL WITCH tiềm tàng đầy năng lực, WITCHFINDER GENERAL với âm thanh nặng trĩu cùng xuất hiện trong thời kỳ này đã báo hiệu một vị trí vững chắc của Heavy Metal và đảm bảo sự tiến triển không ngừng của nó trong thế giới âm nhạc.

Tại Mỹ, cũng trong thập niên 80, thể loại Pop/Glam Metal đã bùng nổ biểu hiện như một sự trả miếng cho sự kiện vừa nói trên. VAN HALEN có mặt từ năm 1978, đã gầy dựng được một ban nhạc chuyên chơi ngoài trời tại các sân vận động, làm mê đắm thế giới qua tiếng đàn phù thuỷ của Eddie Van Halen và những màn trình diễn cuồng nhiệt của David Lee Roth. Ban nhạc JOURNEY nổi tiếng với tiếng đàn keyboard đã bán hàng triệu dĩa kể từ khi ra đời năm 1972. Các ban như ANGEL và FOREIGNER bắt đầu thâm nhập làng nhạc metal trong khi MONTROSE đã vững chân đi vào huyền thoại. Thực sự các fan đã trông đợi và hài lòng với sự xuất hiện của MOTLEY CRUE và RATT xuất thân từ Los Angeles với những bản nhạc lôi cuốn qua những tiếng đàn ngọt dịu mang âm hưởng của các ban cựu trào Anh quốc như SWEET và T-REX. Ngoài ra, 2 ban nhạc Mỹ quốc này còn gợi đậm trong trí nhớ của khán thính giả hình ảnh không phai nhòa của ALICE COOPER, DAVID BOWIE, NEW YORK DOLLS, KISS và GARY GlLITTER. Nhưng trong số đó cũng có những ban nhạc Glam Metal lại tỏ ra quá hào hứng đến độ cái gì cũng đeo lên người, ngoài quần áo da còn có lưới đánh cá, băng quấn ngang trán, đế giày đầy đinh nhọn, kể cả trang sức phụ nữ (!) và phấn son loè loẹt. MOTLEY CRUE có lẽ là một trong những ban ngự trị trên đỉnh cao âm nhạc thể loại Pop Metal thời 80 mà năm 83 đã gây một thành tích vẻ vang cho phong trào Metal Los Angeles qua đĩa “Shout At The Devil”. Sự thành công này đã mang Heavy Metal hoàn toàn trở lại trên thương trường đồng thời gián tiếp giúp đỡ cho ban nhạc RATT đã bị đẩy lùi vào bóng tối và TWISTED SISTER cũng như QUIET RIOT cũ kỹ trở về với vị trí sáng ngời của họ. Những bài “Round and round”, “We’re Not Gonna Take It” và “Cum On Feel the Noize” đã đưa đến thành công cho các ban nhạc đến khắp thế giới và có ai ngờ, đã lót đường cho một hiện tượng mới ra đời: BON JOVI. Bon Jovi (83) thành công chỉ kém DEF LEPPARD (77) một hạng, đã bán hàng triệu đĩa nhạc này sang hàng triệu đĩa khác, nghĩa là đã sáng tác hết “top ballad” này đến “hit ballad” khác liên tục không ngừng. Đĩa “Slippery When Wet” và “New Jersey” của Bon Jovi đã gây sóng gió trở lại thế giới như DEF LEPPARD khi xưa với đĩa “Pyromania” và “Hysteria”. Hai ban nhạc này đã thành công trong việc hòa hợp vị thô chát, chói tai của Metal với tính quyến rũ của âm thanh nhạc Pop tạo nên được một âm sắc hoàn hảo cho giới trẻ đang nghiền nhạc trên MTV thời ấy (dù nhiều ý kiến cho rằng Bon Jovi không phải thực sự là Metal). Trong khi đó, MOTLEY CRUE và RATT đã sáng tạo một phong cách riêng cho nhạc của họ được chứng minh qua tất cả đĩa được phát hành và đạt được thành công rất lâu dài. Điều ấy được ví như là bóng tối của Pop Metal cho dù họ chỉ làm mờ nhạt được những ban nhạc nào không chứng tỏ rõ ràng được thực lực ngang tài. Các ban nhạc như KIX, FASTER P U S S Y CAT và L.A. GUNS không hưởng được một chút vẻ vang nào tuy đã phô trương lực lượng hết mình; trong khi KISS vẫn chứng tỏ được phong cách Pop Metal của họ như trong bài “Heaven’s On Fire”. Sau đó trong một thời gian dài, phong trào Pop Metal đã làm nhạt nhòa tiếng tăm của các ban nhạc có khuynh hướng và mang chút ít âm hưởng cổ điển như THUNDER, G.U.N và JUNKYARD. Kể cả THE CULT và JACKYL nổi lên đây đó như đang bềnh bồng trên mặt nước… Tuy thế, Pop Metal dần dà trở nên quá “bình dân” và “hào nhoáng” quá độ nên cần một sức sống mới. Trong khi chính WHITESNAKE (77) là một ban nhạc Glam Metal bền vững từ thời 70 cũng dần dần cô đọng lại sự hiện hữu của mình và tàn lụi dần, người ta đếm lại trên đầu ngón tay và chỉ còn thấy BON JOVI, DEF LEPPARD và MOTLEY CRUE vẫn sống.

Cục diện sân khấu bấy giờ cần một sự xuất hiện mới của một nhóm nào đó mà vẻ bóng loáng bề ngoài và sự dễ dãi quá độ là một điều không cần thiết, một ban nhạc nào đó chỉ cần nhô ra từ những con phố tối tăm và nhớp nhúa thôi. Và đó là GUNS n´ ROSES! GUNS n´ ROSES là những gì mà Pop Metal đang khao khát chờ đợi. Đĩa “Appetite for Destruction” năm 87 là một loại sắt nung cháy bỏng, khô, chai cứng qua tiếng đàn ghi-ta của Shash đượm đầy nét blues và giọng ca của Axl Rose cất lên như cả thân người chỉ muốn treo tạm lên cây hoặc bám víu sơ sài vào cuộc đời này. Họ chen vào giữa ánh đèn sân khấu của các ban nhạc như HANOI ROCKS, THE ROLLING STONES và AEROSMITH với những bài như “Welcome to the Jungle”, “Night Train” và “My Michelle” hoặc bài “Sweet Child O’ Mine” thật là êm dịu. GUNS n´ ROSES đã vực lại được sự chú ý của thính giả và cứu nguy cho Pop Metal đang gần như bị dập tắt trên thương trường. Họ đã song song với MOTLEY CRUE làm chủ sân khấu trong khi DEF LEPPARD và BON JOVI đang tận hưởng sự nghỉ ngơi của mình rất dài lâu.

Sự xuất hiện của GUNS n´ ROSES không ngăn chặn các ban nhạc khác cùng đến. POISON và WARRANT là một trong những ban nhạc đáng kể trong số đó, mặc dù họ chẳng có gì hoàn toàn mới trong các sáng tác mà phải gọi là bình thường và dễ thuộc lòng, nhưng chính vì cách trang điểm và phục trang rực rỡ của họ đã gây chú ý và được phê bình rất kỹ. WHITE LION (83) cũng là một ban nhạc Pop Metal với các ca khúc hơi nhàm chán vì lập đi lập lại, tuy thế cũng có những bài gây xúc cảm mãnh liệt như là “Lights and Thunder”, “If My Mind Is Evil” và “Leave Me Alone”. Trong khi đó, người ta được thưởng thức một âm thanh dịu dàng của CINDERELLA qua một chuỗi những đĩa nhạc phát hành đều đặn, kể cả TESLA (85) cũng chơi nhạc giống như vậy. Tại Đức phải kể đến ban nhạc DOKKEN tràn đầy kinh nghiệm với tay ghi-ta George Lynch cùng với nghệ thuật trình tấu sống động cao độ mà ta không quên qua bài “Alone Again” chỉ chịu xếp sau bài “The Final Countdown” của EUROPE xuất thân từ Thuỵ Điển. Các ban nhạc như STRYPER, WINGER, GREAT WHITE, Mr. BIG, BAD ENGLISH, DAMN YANKEES và SLAUGHTER cũng góp phần hiện diện quan trọng trong vũ đài này. Nhất định không quên phải kể đến là ban nhạc SKID ROW với thành phần ban nhạc thay đổi như một trò mạo hiểm táo bạo sau sự thành công rực rỡ của đĩa nhạc đầu tay mang cùng tên ban nhạc.

Pop Metal còn đa dạng, mềm mại hơn khi các ban nhạc nữ bắt đầu xuất hiện nối tiếp sự nghiệp của THE RUNAWAYS (75) và GIRLSCHOOL ( 8) (trong phong trào New Wave of British Heavy Metal). Danh tiếng của họ đã tạo dựng một chỗ đứng vững vàng cho phụ nữ trên sân khấu nhạc Rock. Cô ca sĩ kiêm nhạc sĩ ghi-ta Joan Jett và ban nhạc THE BLACKHEARTS thể hiện đầy sức hấp dẫn trong bài “I love Rock n’ Roll”, trong khi đó LITA FORD quyến rũ mọi trái tim qua bài “Kiss Me Deadly”. Hai thành viên cũ của ban nhạc THE RUNAWAYS không còn nổi tiếng nữa nhưng họ đã cùng với cô ca sĩ Doro Pesch trong ban nhạc WARLOCK (83) tạo được một ảnh hưởng của mình cho nhiều ban nhạc nữ khác như VIXEN mượt mà nhung lụa, L7 với phong cách mới, PHANTOM BLUE (87) huyền ảo và DRAIN S.T.H. (97) với thể điệu đầy ảm đạm. Ở một nơi khác trong dòng nhạc Rock nghe như đã vang lên âm thanh có phần “nặng” và chất chứa nhiều tính chất “truyền thống” hơn qua những ban nhạc đã tạo nên những huyền thoại trong suốt thập niên 80. Đó là BLACK SABBATH và Ronnie James Dio đã xuất hiện trở lại với dĩa “Heaven & Hell” và “The Mob Rules”. Cả hai đĩa được đón nhận nhiệt liệt này cho thấy một thay đổi trong giai điệu du dương hơn cũng như thể loại trình bày. Trong khi đó, Ozzy Osbourne sau khi rời Black Sabbath đã hiến dâng cho những người ham mộ nồng nhiệt của mình những giai điệu không quên như trong dĩa “Blizzard of Ozz”, “Diary of a Madman” qua tay đàn mạnh bạo nhưng tuyệt vời của Randy Rhoads. Sự huy hoàng của Heavy Metal còn phải dành một ngôi cho những ban nhạc mới xuất hiện như SAVATAGE, “những ông hoàng sắt” MANOWAR, CIRITH UNGOL và ARMORED SAINT với phong cách riêng của họ. Nhiều ban nhạc lừng danh của thời 70 cũng đã trở lại với nhiều mức độ thành công khác nhau, nhưng không tạo ra được một sự xuất hiện đồng bộ của nền nhạc metal tiền phong, phần lớn bởi vì họ đã đánh mất chất nhạc nguyên thủy của mình hay là chính những cảm xúc mạnh mẽ ban đầu nay không tìm lại được.

Phổ thông [R] - Punk

Nếu gọi Metal là anh cả thì PUNK chính là cậu em trai đã kịp thời cứu nguy cho tấm phông Rock trên sân khấu không bị hạ xuống vĩnh viễn. Một số lượng ban nhạc mới không nhỏ đã xuất hiện, dùng âm nhạc để chống đối chủ nghĩa, chính quyền cũng như những gì đang xảy ra trong cuộc sống. Họ mang lên sân khấu những bài hát nhuộm thẫm sự giận dữ điên cuồng mà thanh niên thời đó gọi là chính đáng. Phong trào nổi lên rầm rộ suốt thời 60 cho đến đầu những năm 70 với những ban nhạc Punk đầu tiên là IGGY & THE STOOGES, MC5 và THE NEW YORK DOLLS. Các ban nhạc của Mỹ và Anh theo sau đã gây cuồng phong trên thế giới phải kể đến là THE SEX PISTOLS, THE RAMONES, THE CLASH, THE DAMNED, SIOUXSIE AND THE BANSHEES cũng như nhiều ban ít tiếng tăm hơn đã góp gió thành bão là THE PAGANS, DEAD BOYS, UK SUBS, THE MISFITS, CRASS, THE EXPLOITED, AMNEBIX và PLASMATICS. Sự đóng góp lớn nhất của Punk vào sân khấu Punk/Heavy Metal có thể là lối nhảy “slamdancing” phổ biến, sự phục hưng một âm thanh đầy sinh lực và sự tuyên truyền rộng rãi chống lại những hành vi sai trái của xã hội (như một tiếng vang lại các ca khúc của Black Sabbath chứa đựng trong những bài như “Children of the Grave” và “War Pigs”). 3 ban nhạc Punk quan trọng nhất đáng nhấn mạnh một lần nữa là IGGY & THE STOOGES, THE RAMONES và THE SEX PISTOLS. Các thành viên trong ban nhạc với Iggy Pop không thiếu sót một điều gì trong việc làm kinh ngạc khán thính giả vì sự cuồng nhiệt quá độ của họ, đến nỗi chính Iggy Pop cũng phải công nhận rằng họ chỉ chịu đựng nhiều lắm là 15 phút qua phần gào thét cuồng dại của Iggy. Ban nhạc của New York là THE RAMONES có những bài hát khinh suất, táo bạo không ngờ, gây ấn tượng và ảnh hưởng mạnh cho các ban nhạc sau này như THE RED HOT CHILI PEPPERS và NIRVANA. THE SEX PISTOLS đáng được gọi là ban nhạc PUNKROCK trứ danh nhất trong mọi thời đại. Các sáng tác của họ nổi tiếng với những lời chỉ trích như trong bài “God Save The Quen” hoặc “Anarchy In The UK”. Tuy nhiên, qua lần trình diễn tại Mỹ năm 1978, ban nhạc này đã tự diệt thanh danh khi tay đánh bass Sid Vicious bị tố cáo đã giết người yêu là cô Nancy Spunge và sau đó đã tự tử trong một cơn say ma túy. Sự kiện này đã đưa Vicious vào danh sách các “liệt sĩ” đáng hổ thẹn của dòng Punk, SEX PISTOLS tan rã, Punk- Rock bắt đầu suy thoái và chỉ còn hoạt động phần lớn lặng lẽ cho đến thập niên 90. Trong khi Punk quyến rũ được số lượng lớn thanh niên, một ban nhạc cuồng nhiệt khác cũng đã bắt đầu tác động vào giới trẻ, đó là MOTÖRHEAD. Band này được biểu thị cho sự bắt đầu của những thể lọai Thrash/Speed/Power Metal và sau này biến thể thành thể loại Death Metal. Từ đĩa phát hành đầu tiên của Motörhead năm 1976 là “On Parole” họ đã biểu lộ rõ tiềm năng không hề vay mượn của mình trong những đĩa phát hành những năm cuối của thập niên 70 và đầu 80 như là “Overkill”, “Bomber”, “Ace of Spades” và “No Sleep ‘Til Hammersmith”. Những cống hiến này thực sự là đòn bẫy cho Metal Song nói chung. Hơn nữa, Motörhead không những đã thu hút nhóm nghe nhạc Metal một cách ngạc nhiên lý thú mà còn hấp dẫn cả các fan Punk bốc lửa và vì thế đã đánh dấu một sự khơi mào cho một biến thể khác gọi là Hardcore.

Nguồn từ internet

Phổ thông [R] - Hard Rock/Heavy Metal Heavy Metal

Bắt đầu từ bao giờ thật là một điều không dễ trả lời ngay. Theo hầu hết các niên sử của dòng nhạc metal, sự bộc phát đầu tiên đến từ ban nhạc THE KINKS (63) tại Luân đôn với bài “You really got me” và ban nhạc THE WHO (64) với bài “My Generation”. Nhạc sĩ chơi thể loại Heavy Metal đầu tiên mà ai cũng đồng ý là Alice Cooper với ban nhạc THE SPIDERS hình thành năm 1965 . Tuy nhiên, cho đến năm 1967, Heavy Metal vẫn chưa được diễn đạt trung thực và cái tên Alice Cooper mới được in đậm trong trí nhớ của thế giới mãi đến năm 1971 qua đĩa nhạc “Love it to death”. Trong năm 1967, thế giới nhạc ROCK vẫn đắm chìm với phong trào hippies Summer Of Love, một mùa hội diễn âm nhạc và là một bằng chứng của một cuộc cách mạng âm nhạc quan trọng với sự xuất hiện hầu như đồng loạt của các ban nhạc sau đây trong những năm 1966-1970: GOLDEN EARING, CREAM, THE JIMI HENDRIX EXPERIENCE, LED ZEPPELIN, VANILLA FUDGE, IRON BUTTERFLY, STEPPENWOLF, BLUE CHEER, DEEP PURPLE, GRAND FUNK RAILROAD, FREE, URIAH HEEP, MOUNTAIN, HUMBLE PIE, BLOODROCK, MC5, BLACK WIDOW, ATOMIC ROOTSTER, CACTUS và BLACK SABBATH. Họ đã gây cho thế giới một ấn tượng về Heavy Metal mà ngay ban đầu 2 ban nhạc IRON BUTTERFLY(66) và STEPPENWOLFF(67) đã làm. Thứ nhất là việc điểm lại các dĩa nhạc đã hình thành; thứ hai, dựa vào câu “Heavy Metal thunder” trong bài kinh điển nổi tiếng “Born To Be Wild”. Và thế là một loại nhạc mới, có nguồn gốc từ ROCK & ROLL và BLUES đã chiếm được ảnh hưởng vào thế hệ trẻ thời ấy sau khi đã mệt mỏi với những phần trình diễn chậm chạp, uể oải của những ban nhạc chơi trong thời kỳ Summer Of Love. Trong những ban nhạc mới ra, CREAM(66) và JIMI HENDRIX EXPERIENCE (67) là những ban nhạc đầu tiên mang đến cho dòng nhạc Heavy Metal lợi nhuận cao. Eric Clapton là một nhạc sĩ kỳ tài của ban nhạc CREAM cùng với tài năng của 2 thành viên khác đã tặng cho người nghe những bản nhạc đi vào huyền thọai như “Sunshine Of Your Love” và “White Room”. Chỉ trong vòng 2 năm và qua 4 tập dĩa, CREAM đã trở thành ban nhạc thành công nổi bật có ảnh hưởng như RUSH và VAN HALEN. Khi ban nhạc tan rã, Eric Clapton đã cùng với Ginger Baker lập ngay một ban nhạc mới là BLIND FAITH. Trong khi đó, JIMI HENDRIX EXPERIENCE cũng là một nhóm tam tấu mà nền nhạc của họ chủ yếu dựa trên những thủ thuật đánh đàn ghi-ta tài tình của Jimi Hendrix. Các tập dĩa như “Are you experienced” và “Electric Ladyland” đã lôi cuốn hàng nghìn người hâm mộ đang lên cơn đói nhạc. Họ ngấu nghiến thỏa thuê những âm điệu đó qua ban nhạc vừa kể tên mà trong thời đó vẫn thường được nhắc đến đồng thời với JANIS JOPLIN (69) và THE DOORS, những thành phần vô tử của nhạc Rock trên thế giới. Trong số nhiều ban nhạc mới ra đời trong thời gian này có SAVOY BROWN, FOGHAT và BAD COMPANY chuyên chơi điệu “blue”, BUDGIE với âm thanh sống động nẩy lửa cũng như UFO đã được sinh ra trong sự phát triển bùng nổ của Heavy Metal. Những ban nhạc khác như STATUS QUO xuất hiện từ năm 67 cũng thay đổi tiếng đàn sao cho hợp với thời “sắt thép”.

Năm 1973 các ông vua Heavy Metal mới thực sự chiếm lĩnh thế giới âm nhạc, đó là các ban LED ZEPPELIN, DEEP PURPLE và BLACK SABBATH. Hình tượng Sa-tăng đến từ 2 ban nhạc Anh vừa kể trên: Black Sabbath và Led Zeppelin. Cá nhân Jimmy Page (trước kia chơi trong ban nhạc THE YARDBIRDS cùng với Jeff Beck và Eric Clapton) nay là nhạc sĩ chơi ghi-ta của Led Zeppelin có vẻ được lôi cuốn đặc biệt về sự huyền bí này trong khi các lời nhạc của Sabbath chứa đựng chủ đề này nhiều hơn. Tuy thế, ban nhạc này không tự xưng là thuộc hạ của Sa-tăng; không giống như các ban nhạc metal sau này. Chính Ozzy Osbourne, ca sĩ của Sabbath, đã có khi than phiền vì hoảng sợ trước những “fan” mặc đồ đen, trên tay là những ngọn nến! Kể đến những lần trình diễn ngòai trời của nhiều ban nhạc, đáng chú ý nhất là Led Zeppelin với phần “rock till you drop” (rock cho đến gục ngã) kéo dài khoảng 2 tiếng và các buổi trình diễn vĩ đại của Alice Cooper, nổi tiếng với nét đặc biệt của con trăn quấn cổ, những màn xẻ, cắt đôi, bẻ đầu các người mẫu giả mà ngay cả chính anh ta cũng tham dự! Hầu hết các ban nhạc đều lên sân khấu, mang những tác động âm thanh “vĩ đại hơn cả cuộc sống” vào phần trình diễn của mình trước một rừng người nóng hực như biển lửa. Những năm đầu ít ỏi của Heavy Metal (vì tính chất tiền phong nên được mệnh danh là CLASSIC METAL sau này) được xem như là một thời đại tuyệt diệu nhất của dòng nhạc. Không có gì để nghi ngờ đấy là một đoạn đường đáng nhớ nhất của lịch sử âm nhạc. Heavy Metal trở lại khi Led Zeppelin, ban nhạc nổi tiếng nhất về loại nhạc này, đã sáng tác những bài kinh điển như “Black Dog” và “Kashmir” năm 75 và cũng khá sáng chói trong việc thử nghiệm các loại nhạc khác như REGGAE và FOLK. Thực tế thì bài sau đây đã được công nhận đóng một vai trò thành công lớn cho Heavy Metal: “Stairway to heaven” qua kỹ thuật sáng tác tuyệt hảo của Page và Robert Plant mà cho đến ngày nay vẫn được phát thường xuyên qua các làn sóng điện.

Tuy nhiên, phải nói là cho đến năm 1970, ban nhạc BLACK SABBATH mới gọi là đã tấn phong cho Heavy Metal một “linh hồn” thực sự. Ảm đạm, u sầu, âm thanh hệt như đang giã nát với chiếc cối xay, như là muốn báo trước một điềm gỡ nào, các tập dĩa “Black Sabbath”, “Paranoid” và “Master of Reality” đã bày tỏ một loại nhạc mang đầy chất tinh quái qua ngón đàn của Tonny Iommi và sự trình diễn của Ozzy Osbourne, Bill Ward và Geezer Butler với các bài kinh điển như “N.I.B.”, “Paranoid” và “Children of the Grave”. Các ban nhạc như CORROSION OF CONFORMITY, METALLICA và NIRVANA đều có ảnh hưởng của loại nhạc metal này. Bộ mặt của lọai nhạc mới hầu như không bao giờ có thể giống như thế từ khi ban nhạc gốc Birmingham này ra đời.

Trong khi đó, Deep Purple, sau một thời gian miệt mài với thể loại Progressive Rock cùng với Rod Evans và Nick Simper, đã xây dựng được một phiến đá vững chắc cho nền nhạc rock qua đĩa “Deep Purple In Rock” (70) và đã trở thành một sứ giả thực sự trong việc cải cách âm nhạc. Thực sự là với các ngón đàn của Ritchie Blackmore hòa nhịp với tiếng đàn synthesizer của Jon Lord và tiếng gào thét chói tai của Ian Gillain đã là phần quyết định chủ yếu cho việc phát triển Heavy Metal ngày nay. Trong những năm giữa thập niên 60, có 6 ban nhạc mới xuất hiện dưới ánh đèn mầu: THE BLUE OYSTER CULT, THIN LIZZY, JUDAS PRIEST, QUEEN, AEROSMITH và KISS. Có thể nói rằng ban nhạc Judas Priest là tiền phong trong việc truyền bá sáng kiến đưa 2 tay đàn guitars vào ban nhạc Heavy Metal; Aerosmith thì mang lại cho thính giả điệu blues buồn, tình dục và ma túy; Thin Lizzy chơi nhạc dưới ánh sáng tân kỳ lấp lóe với điệu nhạc; Queen giới thiệu cho ta một trình độ có thể cho là cao cấp trong việc thử nghiệm trong âm nhạc cũng như đổi mới những giai điệu, tiết tấu hùng hồn cùng với tính chất kiêu kỳ của Progressive rock. Ban nhạc Kiss cách mạng hóa những buổi trình diễn rùng rợn gợi lại trong ký ức khán giả về Alice Cooper. Còn ban nhạc Blue Oyster Cult thì sao? Họ đã biến mất trong sự lãng quên sau một lọat các tập đĩa phát hành trong những năm 80. Nhưng trong những năm 70 êm đềm trôi qua của Blue Oyster Cult, ban nhạc này đã trở thành một phần quan trọng của vũ đài HARD ROCK vì đã phối hợp thật tuyệt vời các giai điệu nhạc của thập niên 60 và tiếng đàn ghi ta khô, thô ráp của họ.

Trong khi một số các ban nhạc chuyên lo củng cố danh tiếng của mình là những tài danh vĩ đại của dòng nhạc rock, các ban nhạc khác đã bắt đầu biến chế loại nhạc mới Progressive rock qua một hướng khó khăn hơn. PINK FLOYD và GENESIS hầu như vẫn đứng ngòai vương quốc của Heavy Metal, trong khi các ban nhạc JETHRO TULL, YES và KING CRIMSON đã làm quen với Heavy Metal nhiều hơn qua những bài như “Aqualung”, “Heart of the Sunrise” hoặc “21st Century Schizoid Man” một cách tương ứng. Được tiêu biểu bởi các kết cấu nhạc phức tạp, phần soạn nhạc khác thường và cách sử dụng nhạc cụ điện tử cao cấp, lọai nhạc Progressive metal chắc có lẽ không bao giờ trở thành hiện thực nếu không có ban nhạc RUSH ra đời. Với album đầu tiên của Rush, tuy lúc ấy chưa được gọi là Progressive, nhưng trong thời gian thâu âm dĩa “Fly By Night” (75) và thành công của tay trống Neil Peart, ban nhạc đã thay đổi vị trí và tỏ niềm khát vọng hơn qua lời nhạc và giai điệu, đưa chất Progressive cho đến biên giới xa nhất qua các dĩa như “A Farewell to Kings” và “Hemispheres”. Nhiều ban nhạc Progressive khác như EMERSON, LAKE AND PALMER; FOCUS; ASIA, IQ và MARILLION chỉ làm quen sơ sài với Metal trong suốt thời gian hiện diện của họ.

Thật là đáng tiếc, Heavy Metal đã bị đình trệ hoàn toàn trong cuối thập niên 70. Aerosmith, Thin Lizzy và Black Sabbath bị chìm đắm trong ngục tù của ma túy, Kiss đánh mất vẻ đẹp của âm nhạc qua việc thương nghiệp hóa quá độ, Deep Purple bị phai nhòa vì việc lo toan thay đổi nhân sự, Led Zeppelin chấm dứt sự nghiệp qua cái chết của tay trống John Bonham; chỉ còn Judas Priest và Queen là đứng vững trong thời gian này. Không chỉ là những ban nhạc có tiếng biến mất dần dần mà vài ban nhạc mới cũng chỉ lóe lên một thời gian ngắn rồi tắt; người ta nói Metal đang nằm ngắc ngỏai trên giường bịnh. Tuy thế, một vài ban nhạc nhỏ nhoi vẫn phát đạt trong kỳ đổ nát này, trong đó phải kể đến AC/DC với tay đàn Angus Young nghiêng ngả đảo điên trên sân khấu và RUSH với giọng rít thất thanh như tiếng động cơ máy bay của Bon Scott. Ted Nugent, thành viên cũ của ban nhạc AMBOY DUKES, đã viết nên những tác phẩm quý giá như “Cat Scratch Fever” và “Double Live Gonzo” trong những năm chót thời 80. Nhóm của anh vì thế đã là một trong những ban nhạc sáng giá nhất còn lại. Dĩa “Ritchie Blackmore´s Rainbow” lại là một album sau cùng hòa nhịp với sự ra đi của thập niên 80 như bước chân của Ronnie James Dio rời khỏi ban nhạc trong sự xao động của bản thân mà anh đã cảm hứng hòan thành qua đĩa “Rainbow Rising” và “Long Live Rock´n´Roll”.

Nguồn từ Internet

Phổ thông [R] - Nu Metal

Nu Metal là gì ???

Nu-Metal là một dòng nhạc Metal mới (Nu vốn là slang, từ lóng New - mới). Metal là một phân nhánh khác của dòng nhạc Rock. Người ta biết đến Metal với hàng loạt những tên tuổi sáng chói trong lịch sử âm nhạc thế giới như Black Sabbath, Kiss, Metallica… Lịch sử của Metal luôn gắn liền với những cuộc tranh cãi về đạo đức và phong cách lập dị của người nghệ sĩ song sức sáng tạo của Metal lại khủng khiếp đến nỗi nếu như không có sự hiện diện của dòng nhạc này, khó có thể tưởng tượng được khuôn mặt của âm nhạc thế giới sẽ ra sao.

Rap và Hip hop là một phân nhánh của nhạc R&B (Rhythm and Blues). Giới nghe nhạc chính thống không coi trọng dòng nhạc mang đậm nét văn hóa của người da đen, xem như một loại nhạc quái thai vì nó chỉ là những “lời đọc” và “nhịp điệu”. Tuy nhiên, Hip hop và Rap vẫn có chỗ đứng đáng nể trong làng nhạc thế giới với ảnh hưởng không thể phủ nhận của 50 Cent hay Emiem.

Và khi hai thể loại nhạc mang đầy tranh cãi và mâu thuẫn này kết hợp với nhau, Nu-Metal xuất hiện. Nu-Metal có những cú “riff” guitar đầy mạnh mẽ và quả quyết của Metal với giọng đọc Rap lạnh lùng của ca sĩ, hai “chất men” chính tạo nên Nu-Metal. Gia vị của Nu-Metal là chiếc đàn guitar 7 dây khiến cho âm thanh guitar bỗng trở nên bất thường và mê hoặc kì lạ. Ngoài ra, trong nhịp đập đầy nhục cảm của hip-hop còn là tiếng “vỉa” xé gió của DJ (người chọn nhạc) tạo cho Nu-Metal thêm âm hưởng của nhạc Dance.

Nu-Metal là sự pha trộn dễ chịu của nhiều dòng nhạc khác nhau. Vậy ai đã tạo nên món cocktail âm nhạc này? Nu-Metal ra đời từ một “nồi chảo văn hoá”: nước Mỹ và người tạo ra những thanh âm Nu-Metal đầu tiên chính là hai cây đại thụ của dòng nhạc Rock và Rap: Run-DMC và Aerosmith. Năm 1986, nhóm Run-DMC đã phát hành Walk this way tạo nên sự đột phá lớn đối với nhạc Rap thời bấy giờ bởi album ngoài những âm thanh Rap truyền thống còn có cả tiếng guitar cuồng nộ và giọng hát nhếch nhác của các thành viên ban nhạc Rock gạo cội Aerosmith.

Tuy nhiên phải đến năm 1994, Nu-Metal mới bắt đầu tạo ra được trào lưu và hướng đi riêng khi Korn ra đời. Với album mang tên nhóm, Korn đã chinh phục giới trẻ khi kết hợp giữa Rap và Metal một cách nhuần nhuyễn. Năm 1998, khi Follow the leader ra đời, Korn đã thực sự trở thành một thế lực với hàng chục triệu album được tiêu thụ trên toàn thế giới. Và đó cũng là thời kì hàng loạt ban nhạc chơi Nu-Metal xuất hiện như Orgy, Rammstein, Ice Cube, Jonathan Davies, Method Man, Stone Temple Pilots, Coal Chamber, System Of A Dawn, Disturbed, Static X, Slipknot…

Nu-Metal trở nên hùng mạnh hơn với sự ra đời của Limp Bizkit. Với sức sáng tạo ghê gớm, Limp Bizkit lập tức thu hút được sự chú ý của giới nghe nhạc. Tay guitar Lead Wes có thể tạo ra mọi thứ từ chiếc guitar của mình, từ âm thanh của nhà máy tới âm thanh của phim kinh dị. Những hit của nhóm như Small Fire đã làm mưa làm gió các bảng xếp hạng MTV. Tuy nhiên phải đợi đến khi Linkin Park ra đời, Nu-Metal mới thực sự đạt đến đỉnh cao. Tay bass Brad Delson đã nói: “Nhạc của chúng tôi là sự lai tạo của heavy alternative rock, hip-hop, và electronic flourishes”. Album đầu tay Hybrid Theory ra đời vào cuối năm 2000 đã trở thành album bán chạy nhất trong năm với 14 triệu bản. Những hit như One step closer, Crawling, In the end đã trở nên quen thuộc với giới trẻ. Năm 2002, nhóm phát hành album remix Reanimation với thành công không kém. Album mới Meteora ngay khi ra đời một tuần đã chiếm vị trí quán quân của bảng xếp hạng Bắc Mỹ và doanh thu trên một triệu bản. Single Somewhere I Belong lập tức nhảy vào top Billboard. Với giọng ca mang âm hưởng rất rock của Chester Bennington, giọng đọc lạnh lùng của Rapper Mike Shinoda cùng với DJ đầy tài năng Joseph Hahn và tay trống cự phách Rob Bourdon, Linkin Park’s đã đạt được thành công khổng lồ cả về mặt nghệ thuật và doanh thu.

Nu-Metal đã mở ra một hướng đi mới còn nhiều gai góc và chông gai nhưng cũng đầy hứa hẹn đối với âm nhạc thế giới. Bị coi là “đứa con dị dạng của Metal”, “kẻ quái thai của Rap”, nhưng Nu-Metal, “Quả bom nguyên tử của âm nhạc hiện đại”, vẫn đang dần tự khẳng định mình bằng những đóng góp nhất định đối với âm nhạc đương đại.

Nguồn từ Internet





Thursday, March 6, 2008

Thử nghiệm

Đây là bài thử nghiệm ^^!